Gonzalez Gallego – Trắng trên Đen (3)

Ruben David Gonzalez Gallego. “Trắng trên Đen”
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga: Phương Hoài, 8-2004
Sách được Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phối hợp với NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 với tựa “Những dải trắng trên nền đen”.

Nước Mỹ

Cần phải căm thù đất nước này. Cần phải thế. Cần phải căm thù tất cả các nước tư bản, nhưng đặc biệt là nước Mỹ. ở nước Mỹ có kẻ thù, có bọn tư bản uống máu giai cấp công nhân. Chủ nghĩa đế quốc Mỹ có bom hạt nhân dành cho chúng ta. Công nhân ở nước Mỹ thường xuyên bị đói và chết đói, trước cửa đại sứ quán Liên xô tại Mỹ người ta xếp hàng rồng rắn xin đổi quốc tịch. Chúng tôi được dạy như vậy, chúng tôi tin như vậy.

Tôi yêu nước Mỹ, yêu từ năm lên chín tuổi. Chính vào năm lên chín, người ta kể cho tôi nghe rằng ở nước Mỹ không có người tàn tật. Họ bị giết sạch. Không trừ một ai. Nếu trong gia đình có một đứa trẻ tàn tật sinh ra, bác sĩ sẽ tiêm cho nó một mũi thuốc độc.

– Giờ các em hiểu là mình đã may mắn thế nào khi được sinh ra trên đất nước của chúng ta rồi chứ? ở Liên xô trẻ em tàn tật không bị giết. Các em được học hành, được chữa trị và nuôi nấng không mất tiền. Các em phải học thật giỏi, biết một nghề có ích.

Tôi không muốn để người ta nuôi nấng tôi không mất tiền, tôi không bao giờ có được một nghề có ích. Tôi muốn một mũi tiêm, một mũi thuốc độc. Tôi muốn đi Mỹ.

Kẻ thiểu năng trí tuệ

Tôi là kẻ thiểu năng. Đó không phải là một biệt danh xúc phạm, đó chỉ là một sự xác nhận. Trí tuệ tôi không đủ phát triển để có thể tự tồn tại, sự tồn tại tối thiểu. Từ nhỏ tôi đã biết rằng thiểu năng có hai loại, có thể bù đắp và không thể bù đắp. Thiểu năng có thể bù đắp là trường hợp người chậm phát triển trí não có thể sống trong xã hội mà không cần tới sự giúp đỡ của bên ngoài. Thí dụ điển hình của trường hợp thiểu năng bù đắp được thường được nêu ra là những người có vấn đề về tâm thần, những người nhờ những nỗ lực của các nhà sư phạm và các thầy thuốc, đã học được nghề gác cổng hay thợ quét vôi. Các nhà sư phạm dạy tôi giải những phép tính phức tạp, các thấy thuốc cố gắng nhồi thuốc, ân cần bó bột cứng tôi lại – những cố gắng của họ đều vô ích. Tôi đến tận bây giờ vẫn không thể nhấc nổi cái chổi quét vôi.

***

Một trong những hồi ức đầu tiên về tuổi thơ là câu chuyện nghe lỏm được của người lớn.
– Cậu nói rằng nó thông minh. Nhưng nó không biết đi!

Từ đó đến nay chẳng có gì thay đổi. Suốt cuộc đời mình, người ta nói đến sự tàn phế của tôi như nói đến khả năng có thể hay không thể thực hiện các động tác cơ học: đi lại, ăn, uống, đi vệ sinh. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn luôn là điều quan trọng nhất: tôi không thể đi lại được. Những điều khác người lớn hầu như không bao giờ quan tâm. Không thể đi được – tức là bạn là kẻ thiểu năng.

Cô nhi viện tiếp theo, sự chuyển nhà tiếp theo. Tôi được chuyển tới cô nhi viện đó từ bệnh viện, nơi hai năm trời người ta cố gắng giúp tôi đi lại được nhưng không thành. Việc chữa chạy rất đơn giản. Đôi chân khoèo ở gối của tôi bị người ta bó bột, rồi dần dần cắt bó bột ở những chỗ cần thiết, nắn các khớp và cố định chân trong tư thế mới. Sau một năm rưỡi, chân tôi thẳng ra. Người ta thử cho tôi đi nạng, hiểu rằng vô ích, và tôi được ra viện. Trong suốt thời gian chữa chạy, đôi chân tôi lúc nào cũng đau nhức, tôi tiếp thu rất kém. Theo quy định, tất cả học sinh Liên xô đều có quyền được học hành, những ai có thể đều tới lớp học mở trong bệnh viện, những người khác được giáo viên tới tận phòng bệnh dạy. Cô giáo cũng tới chỗ tôi đôi lần, nhưng sau khi nhận rõ sự ngu ngốc không thể chuyển hoá được của tôi, cô đã để tôi yên. Các thầy cô thương hại đứa trẻ tội nghiệp và trong tất cả các môn học đều cho tôi điểm “trung bình”. Tôi cứ như vậy mà lên từng lớp một.

Tôi được đưa tới bệnh viện khi đang học lớp hai, khi ra viện người ta cho tôi học lớp bốn. Mọi chuyện đều đúng đắn, mọi chuyện đều theo luật. Người ta mang tôi đến lớp, đặt xuống sàn.

Đang là giờ học toán. Tôi gặp may. Đúng ngày hôm đó cả lớp phải làm bài kiểm tra. Kiểm tra môn toán là một việc nghiêm túc, hội đồng giáo viên đã dành hẳn hai tiết liền, mỗi tiết bốn lăm phút, cho sự kiện quan trọng này.

Cô giáo hỏi tôi dăm ba câu, nhận thấy cần phải chuyển thằng bé xuống lớp hai và thoả mãn. Cô gọi bảo mẫu tới, ra lệnh đưa tôi về phòng ngủ.

Bảo mẫu tới. Nhìn tôi.
– Tôi vừa mới bế nó, giờ lại bế nữa à? Tôi không phải là con ngựa thồ của các người, tôi cũng có quyền của tôi. Thế mà gọi là có học à?. Nó không thuộc bài và tôi phải gánh chịu sao? Nếu không có chiến tranh, có khi tôi cũng đã thành cô giáo.

Bà bảo mẫu mỗi lúc một to tiếng, cô giáo nghe bà một cách chăm chú và cuối cùng phải nhượng bộ. Cô lịch sự yêu cầu bà bảo mẫu ra ngoài, xin lỗi vì đã làm phiền. Bà bảo mẫu đi khỏi, có thể bắt đầu làm bài kiểm tra.

Cô giáo viết nhanh đề bài lên bảng. Xong xuôi, cô ngồi xuống ghế.

Tôi nhìn lên bảng và không hiểu gì hết. Trong bài toán có cả chữ cái đứng lẫn với những chữ số. Thế nào là cộng và trừ thì tôi biết rõ, – trước khi vào bệnh viện tôi học giỏi nhất lớp – nhưng dấu nhân với tôi chỉ là lỗi viết nhầm thông thường.
– Ở đây có nhầm lẫn trong thí dụ, – tôi lên tiếng không cần xin phép. – Tại sao cô viết chữ cái cùng với các con số? Không thể tính toán các chữ cái được.
– Đó không phải là lỗi. Những chữ cái này thật ra thể hiện các con số. Con số nào đáng ra phải đứng vào chỗ các chữ cái, chúng ta phải tìm ra. Đó gọi là giải phương trình.
– Như vậy nếu một cộng với “xờ” bằng ba, “xờ” bằng hai? Giống như bài đố vui trong tạp chí.
– Không phải “xờ” mà là “iks”. Nói chung thì em nói đúng.
– Vậy tại sao trong thí dụ thứ hai “iks” lại viết giữa hai chữ số?
– Đó không phải là “iks” mà là dấu nhân. Nó được viết hoặc là như dấu chấm hoặc là như chữ “xờ”. Trên bảng cô viết dấu nhân giống hai gạch chéo để những bạn ngồi bàn sau có thể nhìn rõ hơn.

Phép nhân là gì tôi không biết. Các bác sĩ ở bệnh viện không hiểu tại sao lại chỉ quan tâm hai với hai, ba với ba bằng mấy. Nếu tôi trả lời không đúng, họ phá lên cười, nhắc câu trả lời đúng, thỉnh thoảng cho tôi kẹo hay bánh quy. Nếu như bọn họ giải thích ngay rằng phép nhân là phép cộng lần lượt thì tôi cũng chẳng thấy khá hơn. Chân tôi đau ghê gớm, tôi ghét bác sĩ.

Cô giáo giải thích cho tôi về phép nhân.
– Cô giải thích cho em những điều đó làm gì nhỉ? – Cô giáo nói tiếp. – Em thậm chí không thuộc bảng cửu chương.
– Em thuộc, nhưng chỉ đến năm thôi. Em vẫn còn nhớ sáu lần sáu là ba sáu.
– Thế bảy lần tám?
– Đợi em một chút.
Tôi bắt đầu tính toán thành tiếng. Tôi trả lời đúng.
– Giỏi lắm, – cô giáo khen tôi.
– Điều đó không khó, – tôi nói, – khi cô giải thích, mọi chuyện thật đơn giản. Cô nói tiếp đi.
– Em sẽ không hiểu được.
– Em sẽ hiểu. Chính cô vừa bảo em giỏi còn gì.

Cô giáo nhanh nhẹn tới bên bảng và bắt đầu bài giảng. Cô viết mải miết. Thỉnh thoảng cô dừng lại và hỏi: “Em hiểu không?”. Tôi hiểu hết. Cô nói với tôi về toán học, tôi ngắt lời cô bằng những câu hỏi. Cô nói nữa đi, tôi đề nghị, cô nói nữa đi. Chúng tôi mỉm cười với nhau. Mọi chuyện thật giản đơn.
– Xong. Đến đây là xong. Cô đã giảng cho em hết những gì một học sinh lớp bốn cần biết.
– Em có thể viết bài kiểm tra không?
– Cô không tin tưởng lắm, nhưng em hãy thử đi.

Tôi thử.
Hai tiếng trôi qua thật nhanh, cả lớp nộp bài kiểm tra. Cô giáo cúi xuống, cầm tờ giấy của tôi lên, liếc nhanh. Cô nhìn tôi. ánh mắt cô lạnh lùng và xa lạ, không giống lúc mới đây đứng bên bảng. Tôi hiểu mọi chuyện.

Là kẻ thiểu năng không quá khó. Mọi người nhìn lướt qua bạn, không nhận thấy bạn. Bạn không phải là người, không là ai cả. Nhưng đôi khi vì lòng tốt tự nhiên hay vì sự cần thiết nghề nghiệp mà người nói chuyện nhận thấy rằng nội tâm bạn cũng giống như tất cả những người khác. Trong một giây, sự vô cảm thay bằng sự ngưỡng mộ – nỗi tuyệt vọng câm lặng trước thực tế.

Tôi không nhìn cô giáo. Tất cả bọn họ đều giống nhau. Tôi tin chắc rằng lúc này cô cũng nghĩ điều mà tất cả, ở vào vị trí của cô, đều nghĩ – về đôi chân của tôi. Đôi chân mới là quan trọng, còn môn toán, đó chỉ là chuyện vặt, là trò giải trí.

Sasha

Chúng tôi quen nhau từ khi lên năm tuổi. Cậu ấy xúc phạm tôi. Sau đó chúng tôi chơi thân với nhau. Mẹ cậu thường cho tôi ăn kẹo, và một lần bà còn tặng tôi một món đồ chơi lên dây cót. Một người phụ nữ quyền lực, mạnh mẽ và rất tốt bụng, bà đã nuôi dạy được một đứa con trai tốt. Cách đây không lâu, năm năm trước, tôi được biết rằng bà đã từng muốn nhận tôi làm con nuôi. Nhưng không được phép. Khi tôi, đã trưởng thành, hỏi bà lý do, bà hiểu cả và chỉ trả lời:
– Sasha sẽ bớt buồn. Các cháu sẽ chơi cùng nhau. Cháu có thể vào đại học, cháu rất thông minh, không giống như thằng con bị thịt của cô. Cô có thể biến cháu thành giáo sư.

Tôi nhìn vào mắt người phụ nữ Nga thông minh đó và tin rằng, nếu người ta cho bà nhận tôi, bà có thể vượt qua mọi rào cản, mọi thử thách, bế tôi trên tay đến lớp, sẽ biến cậu bé mắt đen người Tây Ban Nha thành giáo sư toán học. Không phải là bác sĩ hay nhà giáo, nhưng bà đã nhìn thấy trong mắt đứa trẻ năm tuổi điều mà nhiều hội đồng y khoa không thể hiểu được. Tôi biết rằng bà sẽ không đọc chẩn đoán về “bộ não hoạt động một phần” hay “thiểu năng trí tuệ” của tôi. Bà đã nhìn thấy mắt tôi.

Nhưng tôi sẽ viết về Sasha, con trai bà. Về một cậu bé có mẹ.

***

Tôi không nhớ mấy về tuổi thơ xa xôi của mình, khi chúng tôi còn là những đứa trẻ sơ sinh. Tôi chỉ thật sự hiểu Sasha khi số phận đã gắn kết chúng tôi ở một trong số các cô nhi viện của tôi.

Nó bò ngoài hành lang và hát:

…Những con người vạm vỡ bước lên đài
Chỉ lắc vai mà giật tung xiềng xích.

Sasha rất khác chúng tôi. Mẹ nó, một cán bộ cao cấp trong ngành thương nghiệp, đã giáo dục nó thật đơn giản. Bà mang nó đến nơi làm việc và cho nó thấy mặt thật của cuộc sống. Nó biết tất cả về những toan tính, về hoá đơn, về chuyện những hàng hoá khan hiếm được phân phối ra sao và tại sao bữa sáng chúng tôi lại được ăn ít cháo.

Nó bò ngoài hành lang và hát. Giọng nó rất to, có thể nghe thấy từ đằng xa. Nó oang oang chào hỏi các bà bảo mẫu và giáo viên đi ngược chiều. Nó gọi họ là “nhân viên”.

Nó tới trường muộn, mẹ nó bỏ ra rất nhiều thời gian và tiền bạc để cố gắng chữa chạy cho nó. Như mọi bà mẹ, bà muốn thấy con trai mình khoẻ mạnh và hạnh phúc. Do vậy mà nó lớn hơn các bạn cùng lớp rất nhiều.

Tôi khó chịu với cái kiểu hát rống lên của nó. Tôi không thích cách nó nói chuyện với các bà bảo mẫu. Nó rất hay xưng “bà” với họ. “Này, Mania, bà đừng có tiếc, hãy múc thêm cháo vào. Và cũng múc thêm cho cả cậu này nữa. Bà nghĩ rằng nếu nó không cha mẹ và không có ai bảo vệ thì không cần phải cho nó ăn sao?” Khi đó tôi vẫn chưa hiểu rằng nó đang che dấu nỗi lo lắng đằng sau sự thô tục cố tình đó. Tôi coi các bà bảo mẫu như các á thánh, còn nó có thể đáp trả lại nguyên xi trước những câu chửi tục hay thói vô học.

Khi đó tôi vẫn chưa hiểu gì hết.

***

Sasha có bưu phẩm. Mẹ Sasha hiểu rằng cuộc sống trong cô nhi viện không phải là thần tiên và gửi cho nó những gói bưu phẩm to tướng chứa toàn thực phẩm. Là người mẹ yêu con, bà muốn Sasha có bạn, để nó có thể đi học ở trường, bởi vậy nên bà cho nó tới cô nhi viện. Bà đón nó về nhà trong tất cả các kỳ nghỉ và cả trong mùa hè, tô điểm cuộc sống cô nhi viện của nó trong mức có thể: gửi bưu phẩm, cho tiền.

Mẹ cũng có nhiều kiểu. Những bà mẹ xuẩn ngốc mang và gửi kẹo đến cho con. Những bà mẹ thông minh mang đến mỡ, tỏi, đồ hộp tự làm, nói chung là các loại thực phẩm.

Mẹ của Sasha không chỉ thông minh, bà còn là lãnh đạo cao cấp. Bà gửi đến những gói bưu phẩm sang trọng với sô cô la và thịt hầm, dứa hộp và nước quả bơ.

Hôm đó nó nhận được một lúc hai gói bưu phẩm, mỗi gói nặng mười một cân. Sasha đặc biệt tự hào về trọng lượng này.

– Theo quy định của ngành bưu điện Xô viết, các cá nhân chỉ được gửi bưu phẩm dưới mười cân, nhưng… (nó kéo dài giọng) trong những trường hợp đặc biệt, người ta chấp nhận cả những bưu phẩm đến mười một cân.

Khi đó tôi chưa hiểu gì về quy định của ngành bưu điện, nhưng tôi hoàn toàn chia xẻ niềm vui với Sasha. Bưu phẩm càng nặng càng tốt, việc này đã hẳn.

Cô giáo dưỡng vác tới cho nó hai gói bưu phẩm, thở phì phò và nguyền rủa các bậc cha mẹ yêu con.
– Sasha, theo quy định của cô nhi viện, mỗi lần cô chỉ có thể đưa cho cháu không quá hai trăm gam thực phẩm. Khẩu phần của các cháu đã được tính toán và ăn nhiều sẽ có hại. Cô cần phải kiểm tra chất lượng của chúng trước.

Bà ta đã uổng công nói điều đó.

– Vậy cô sẽ kiểm tra bằng thiết bị đặc biệt, hay, xin lỗi cô, bằng lưỡi? Sao cháu không nhìn thấy thiết bị? Vậy chúng ta thoả thuận thế này nhé. Cô sẽ kiểm tra một hộp thịt hộp và một hộp dứa hộp, còn lại để cho cháu, và coi như xong. Được không?
– Sao cháu có thể nghĩ như vậy được? Cô không cần thịt hộp của cháu. Cháu hãy chọn thứ gì cháu thích, và cô sẽ mang bưu phẩm của cháu đi.
– Thế này vậy. Cháu sẽ không chọn gì hết, cô sẽ mang bưu phẩm đi. Ngày mai cô lại mang đến, và cháu sẽ lại không chọn gì hết. Cô có nghĩa vụ phải mang những gói bưu phẩm này đến cho cháu. Ngày nào cô cũng sẽ mang đến cho cháu, vài tháng liền, cho tới khi mẹ cháu tới thăm. Và khi đó cô đi mà giải thích với mẹ cháu về chuyện ăn nhiều và kiểm tra chất lượng thực phẩm. Tin cháu đi, mẹ cháu là cán bộ thương nghiệp và mẹ cháu biết rõ chuyện kiểm tra chất lượng thực phẩm.

Khả năng phải nói chuyện với mẹ Sasha không làm cô giáo dưỡng thích thú.

Sasha là một cậu bé thông minh. Nó hiểu rằng phải để cho đối phương một con đường lùi.
– Cháu có ý này! Giờ cô chỉ kiểm tra trên lọ và hộp ngày sản xuất, những thực phẩm quá hạn cô sẽ tịch thu. Còn chuyện hai trăm gam cô đừng lo. Cháu sẽ không ăn số đồ hộp này một mình và trong một buổi chiều đâu.

Cô giáo dưỡng vui mừng trước sáng kiến này. Chẳng ai muốn cãi nhau với mẹ của Sasha. Hơn nữa bà ta hiểu rằng mẹ cậu sẽ chẳng gửi cho con trai những thứ vớ vẩn. Bà ta kiểm tra tất cả số thực phẩm một cách tận tâm, không có thứ gì quá hạn cả. Bưu phẩm giờ Sasha được giữ cả, và nó, rộng rãi đưa cho cô giáo dưỡng hộp thịt hộp. Cô giáo dưỡng từ chối. Khi đó Sasha lấy từ trong thùng ra một hộp dứa hộp.
– Cô cũng có con. Hãy chuyển cho bọn nó.

Cô giáo dưỡng lưỡng lự. Bà ta muốn mang dứa về cho các con, nhưng vẫn còn giận Sasha, giận cách nó ăn nói với bà ta – đại diện của quyền lực và một người lớn. “Cho bọn trẻ, cho bọn trẻ”, – Sasha nhắc lại và nhìn vào mắt bà ta. Bỗng nhiên cô giáo dưỡng mỉm cười, cầm lấy hộp dứa và đi ra. Bà là bà cô tốt bụng và hiểu rằng Sasha không giận bà.

***

Liên xô – đất nước của nạn khan hiếm hàng hoá. Hàng hiếm – đó là khi một mặt hàng nào đó không có bán trong cửa hàng và không thể mua nó dù với giá nào đi chăng nữa. Nhân viên cô nhi viện thường nhờ Sasha “kiếm” hàng hiếm. Thường thì Sasha từ chối. Nó không muốn tham gia vào những trò chơi này của người lớn. Nó không độc ác và không tham lam, chỉ đơn giản là nó hiểu rằng mẹ nó không thể cung cấp hàng hiếm cho tất cả. Cô giáo dưỡng nhờ nó “kiếm” kiều mạch. Kiều mạch là hàng hiếm. Mẹ bà ấy, một người mắc bệnh đái tháo đường, rất cần kiều mạch. Mẹ bà ấy không ăn gì hết, chính xác hơn là phải ăn kiêng. Trong số các thực phẩm được phép có cháo kiều mạch. Sasha viết thư cho mẹ và bà gửi kiều mạch tới.

Cô giáo dưỡng mang bưu phẩm đến cho Sasha. Trong bưu phẩm có hai cân kiều mạch. Bà ta nhìn Sasha. Chờ đợi.
– Kiều mạch, loại một, – Sasha nói, – giá bốn tám cô pếch một cân, ở đây có hai cân. Của cô chín mươi sáu cô pếch.
– Được rồi, Sasha, cô sẽ ghi lại là cháu có chín mươi sáu cô pếch.

Vấn đề ở chỗ, các cô giáo dưỡng trong cô nhi viện bị cấm mang tiền mặt theo người.

Những ông bố bà mẹ ngốc ngếch đã đưa tiền cho cô giáo dưỡng. Cư dân cô nhi viện có thể nhờ cô giáo dưỡng, cô sẽ mang đến trong lần trực sau những thứ được đặt hàng. Bằng cách đó có thể mua được kẹo hay bút chì chẳng hạn. Nhưng không được nhờ cô giáo dưỡng mua những thứ bị cấm. Ngoài rượu và thuộc lá thì cá hộp, trứng, bánh ngọt và những thực phẩm tự chế cũng bị cấm. Không cần phải giải thích cũng rõ, trong cô nhi viện tiền mặt được chuộng hơn.

– Không. Thế không được. Đó không phải là kinh doanh. Không thế thì cô cũng đã cầm của cháu khoảng năm mươi rúp rồi. Cô đằng nào cũng có đưa cho cháu đâu!
– Cô không đưa. Điều này bị cấm. Mà cháu sẽ làm gì với chỗ kiều mạch đó chứ?
– Cháu sẽ bán cho bà Dusia. Bà ấy là bảo mẫu, bà ấy cóc sợ những cấm đoán của các người.
– Nhưng cô cần kiều mạch cho mẹ cô. Cháu đã hứa rồi.
– Cháu chẳng có gì phản đối mẹ cô cả. Hãy để bà ấy ăn cháo kiều mạch và sống vui vẻ. Nhưng cháu hứa bán bột cho cô chứ không phải là biếu không.
– Thôi được rồi. Hãy cầm lấy một rúp và chúng ta hết nợ.
– Không. Cô nợ cháu đúng chín mươi sáu cô pếch. Cháu không có bốn cô pếch.
Cô giáo dưỡng chấp nhận cuộc chơi. Chạy đi kiếm tiền lẻ.

Cuộc trao đổi đã hoàn thành.

***

Buổi sáng chúng tôi được ăn cháo kiều mạch. Cháo kiều mạch là món hiếm trong cô nhi viện. Mỗi người được hai thìa cháo, chúng tôi phấn khởi. Chỉ mình Sasha không vui. Nó chửi thề, những đường gân trên cổ phồng lên, nó nói gọn lỏn: “chó má”, và cầm lấy khẩu phần của mình trên bàn bò tới phòng nơi các bà bảo mẫu ăn.

Sasha có thân hình của một người trưởng thành. Chân nó xoắn lại một cách kỳ cục, một tay bị liệt. Nó bò đến phòng của các bảo mẫu, dùng đầu mở cửa và ném đĩa cháo vào phòng bằng cánh tay lực lưỡng.

Trong phòng, bà bảo mẫu, con gái và chồng bà ta đang ngồi quanh bàn. Trước mặt mỗi người là một đĩa cháo đầy ú.

Người đàn ông ngẩng mặt khỏi đĩa cháo. Ông ta nhìn thấy Sasha và nghe thấy những lời của nó. Sasha nói rằng bà bảo mẫu không những sống trên đau khổ của người khác mà còn nuôi cả một cô con gái mặt to và một gã nhân tình. Đương nhiên là Sasha nói những điều đó bằng thứ ngôn ngữ dân dã Nga, kèm theo những câu chửa tục. Tôi không dám nhắc lại những lời đó. Người đàn ông đặt thìa xuống đĩa cháo và nói gọn lỏn: “Manhia, chúng ta ra ngoài”. Sasha bò lùi lại khỏi cánh cửa và bọn họ bước ra.

Manhia quay về với một vết thâm dưới mắt và một xô cháo đầy. Hoá ra trong nhà ăn có rất nhiều cháo, nhưng bà ta ngại phải xách xô cháo đầy.

***

Sasha bị buộc tội hút thuốc. Nó luôn có sẵn tiền và có thể mua được cả những loại thuốc đắt tiền. Nhưng nó không hút thuốc. Tuyệt nhiên không.

Hôm đó nó chuẩn bị sẵn thuốc lá, bò đến phòng giáo viên và hút. Nó hút rất chăm chú, rít thật sâu. Các thầy cô đi đến phòng giáo viên, nhìn kẻ mất dạy nhưng không có phản ứng nào hết. Khói thuốc tràn ngập hành lang và thậm chí chui cả vào phòng giáo viên. Cuối cùng thì nó cũng đợi được thầy hiệu trưởng.

Ông ngồi xổm trước mặt Sasha.
– Em tắt thuốc lá đi.
Sasha dụi điếu thuốc.
– May quá. Em cứ nghĩ sẽ phải hút hết điếu thuốc.
– Em hút thuốc gì vậy?
– “Cosmos”. Quả là một thứ kinh khủng, nhưng dù sao cũng có đầu lọc.
– Tại sao em lại hút thuốc cạnh phòng giáo viên?
– Em đợi thầy.
– Để làm gì? Em cũng biết rằng hút thuốc có hại. Dù là thuốc có đầu lọc.
– Em không hút thuốc. Em có phải thằng ngu đâu mà đi đầu độc bản thân, lại còn phải mất tiền vì điều đó. Bởi vì em bị buộc tội hút thuốc. Em thì sao cũng được, nhưng cô giáo dưỡng quả quyết rằng em nói dối cô ấy. Nếu muốn hút thuốc, em sẽ hút một cách công khai. Sức khoẻ của em là việc riêng của em. Nhưng em không cho phép nghi ngờ em nói dối. Nếu cô ấy muốn em hút thuốc, em sẽ hút ngay trước mắt cô ấy.
– Tức là em thấy bị xúc phạm vì bị nghi ngờ và em quyết định chống đối ngay tại đây?
– Đúng.
– Thôi được, thầy sẽ nói chuyện với cô ấy. Em còn thuốc lá không?
– Hai gói rưỡi.
– Em đưa chúng cho thầy chứ?
– Nhưng đó là loại thuốc đắt tiền.

Thầy hiệu trưởng mỉm cười. Thò tay vào túi quần lấy tiền. Thầy cầm lấy mấy bao thuốc, đưa tiền cho Sasha và đi vào phòng giáo viên.

Cô nhi viện đó có thầy hiệu trưởng rất tốt.

***

Chúng tôi có những giáo viên rất giỏi. Những người say mê công việc của mình. Tất nhiên thầy cô không vất vả bằng bảo mẫu. Họ không phải chăm sóc chúng tôi. Đối với tôi, ý kiến của thầy cô so với ý kiến của bảo mẫu chẳng là gì hết. Nhưng dù sao thầy cô vẫn là những người lớn, những người cần thiết cho xã hội, còn tôi – chỉ là một bị thịt vô dụng. Sasha không nghĩ như vậy.

Một lần lớp chúng tôi có một cô giáo tiếng Nga mới. Những người tình cờ đến làm việc với chúng tôi thường ra đi chóng vánh, chẳng có gì níu giữ được họ, kể cả khoản phụ cấp đáng kể vì “độc hại”. Cô giáo này chỉ là người thế chân, tức là tạm thời dậy thay cô giáo bị ốm.
Giờ chính tả. Tất cả các học sinh ngồi bàn. Sasha nằm trên sàn. Tì vào cánh tay khoẻ, nó cố gắng viết những con chữ to và xấu xí. Người nó run bần bật, nhưng nó rất cố gắng.
– Thưa cô, cô có thể đọc chậm hơn được không ạ?
– Tôi đọc với tốc độ quy định đối với chương trình lớp sáu phổ thông cơ sở.

Sasha nhoẻn cười.
– Thưa cô, nếu như em có tay như học sinh lớp sáu phổ thông cơ sở, em đã không làm phiền đến cô.
– Nếu vậy em phải vào học trong trường dự bị.

Sasha không giận. Nó đặt bút xuống và lôi trong cặp ra một cuốn sách.
– Em định làm gì vậy?
– Đọc sách. Em không thể viết kịp, mà không được làm ảnh hưởng đến những bạn khác.
– Em có thôi ngay đi không?
– Cô sẽ đọc chậm hơn chứ ạ?

Sự kiên nhẫn của cô đã cạn. Thằng bé này quả là mất dạy. Lẽ ra nó phải xin thêm lần nữa, ở địa vị nó, không được quyền lựa chọn. Nó phải bị trừng phạt. Cô giáo viết gì đó rất lâu trong sổ đầu bài.
– Tôi sẽ mời bố mẹ em đến.
– Từ Leningrad ư? Mẹ em sẽ không đến. Cùng lắm thì mẹ em sẽ gọi điện cho hiệu trưởng cô nhi viện.
– Thôi được. Vậy tôi sẽ không cho em ôn bài và ngày mai em sẽ ăn ngỗng ở tất cả các môn.
Hôm đó cô ta có buổi trực đêm.

Cô giáo đi tìm bảo mẫu. Ba bà bảo mẫu to béo đặt Sasha vào xe lăn và cố đẩy về phía phòng ngủ.
– Sao cô không tự mình đẩy xe? Cô sợ bị sụn xương sao?

Rồi nói với các bà bảo mẫu:
– Thôi được rồi, mấy cô, các cô là những người bị ép buộc, chúng ta đi nào.

Nó bấu chặt cánh tay khoẻ mạnh vào bánh xe. Thân hình nó uốn cong vì co giật, nó rất đau đớn, nhưng không thể nào gỡ cánh tay nó ra khỏi nan hoa xe. Mấy bà bảo mẫu đành phải bê chiếc xe lăn với bánh xe được gắn chết vào xe. Họ nguyền rủa cô giáo thành tiếng nhưng vẫn bê xe lăn, nhẹ nhàng mắng mỏ Sasha.

Còn Sasha thì hát. Nó hát về con tàu Nga không đầu hàng trước quân địch lớn mạnh:

Tàu Variak kiêu hãnh của ta không đầu hàng giặc
Không một ai muốn được khoan hồng.

Người ta mang nó đến phòng ngủ, hất ra sàn nhà. Cô giáo vui mừng. Ngày mai Sasha ăn ngỗng là cái chắc.

Buổi tối, khi bọn trẻ ăn xong và nhân viên cô nhi viện đi ăn, Sasha bò ra ngoài sân, bò tới lớp học.

Mùa đông. Tuyết. Gió.

Trường cách không xa – khoảng ba trăm mét. Bằng cánh tay khoẻ mạnh, nó cào tuyết bên dưới và thận trọng di chuyển cánh tay đau. Tệ nhất là tuyết cào không được bao nhiêu và cánh tay đau của nó cứ luôn bị trơn tuột trên mặt đường đóng băng, không thể bò nhanh được.

Nó cũng ăn mặc như chúng tôi, những đứa không đi được. Bộ quần áo dệt kim, áo sơ mi. Sơ mi phanh ra. Nó phanh ra không phải để trông cho bụi, mà bởi vì áo sơ mi luôn bị tuột xuống một bên vai và cúc áo bị đứt.

Nó bò tới trường, rồi bò vào lớp mình và đọc bài ngày mai.

Mấy bà bảo mẫu phát hiện đứa trẻ biến mất, họ lần theo dấu vết và gọi cô giáo.
– Cô đi mà giải quyết với nó.
Cô giáo đi vào lớp, nhìn Sasha.
– Em làm gì ở đây?
– Thực hiện quyền hiến định của mình, chuẩn bị bài.
– Nhưng tại sao em lại bò giữa tuyết?
– Em không còn cách nào khác. Em cần phải chứng minh với cô rằng không thể chiến thắng em bằng sự thô bạo. Phải rồi, cô hãy bố trí phương tiện, em sẽ không bò về đâu.

Cô giáo vùng chạy. Sau đó chúng tôi được kể lại rằng cô ấy bị sốc, cứ khóc mãi, nhưng chúng tôi không tin. Chúng tôi không tin rằng thầy cô có thể khóc vì những chuyện vặt vãnh như vậy.

***

Mấy năm sau tôi đến chơi chỗ Sasha.
– Mẹ ơi, mang vodka ra đi mẹ, con và Ruben sẽ uống một chút.
– Nhưng con thậm chí Tết cũng không uống mà?
– Nhưng Tết thì năm nào chẳng có, còn Ruben con đã không gặp sáu năm rồi.

Chúng tôi uống vodka, nói chuyện, và tôi đã hỏi cậu câu hỏi quan trọng nhất:
– Sasha, cậu có mừng vì đã từng sống trong cô nhi viện?
– Không. Từ cô nhi viện ra, tớ đã trở thành một người khác. Tốt hơn là không có cô nhi viện.
– Nhưng trong cô nhi viện, cậu có bạn bè, cậu đã quen tớ.

Sasha ngẫm nghĩ.
– Xin lỗi cậu, Ruben. Cậu là một chàng trai tốt, một người bạn, tớ mừng vì đã làm quen với cậu. Nhưng tốt nhất là không nên có cô nhi viện.

New York

Giáo viên chủ nhiệm lại có giờ chính trị với chúng tôi. Chúng tôi được nghe kể về những điều kinh khủng của lối sống Phương Tây. Chúng tôi đã quen và chẳng thấy ngạc nhiên vì điều gì hết. Tôi tin tưởng tuyệt đối rằng, phần lớn người Mỹ sống lang thang ngoài đường phố trong những hộp các tông, tất cả người Mỹ đều phải xây hầm trú ẩn, đất nước họ lại chịu một cơn khủng khoảng mới.

Lần này chúng tôi được nghe kể về New York. Một bài báo của “New York Times” về chuyện phát pho mát miễn phí cho công nhân thất nghiệp được trích dẫn. Người ta đã phát hết mấy tấn pho mát, mỗi người một trăm gam. Cô giáo đặc biệt nhấn mạnh rằng những con người bất hạnh đó sẽ không nhận được gì trong suốt tháng tiếp theo.

Tôi hỏi, vậy liệu bọn họ có chết đói không?
– Tất nhiên, họ sẽ chết, – cô giáo trả lời. – Nhưng thay thế họ sẽ là những làn sóng công nhân bị sa thải mới.

Tôi tin.

***

Chỉ có hai chúng tôi trong lớp – tôi và thầy giáo môn lịch sử. Thầy viết gì đó trong sổ đầu bài, tôi đọc sách. Thầy ngồi ở bàn giáo viên, tôi nằm trên sàn cách thầy không xa.
– Thầy có bận lắm không ạ?
– Em muốn gì à?

Thầy ngừng viết, ngẩng đầu. Thầy có đôi mắt rất hiền từ và thông minh, mái tóc chớm bạc. Huy hiệu cài trên ve áo khoác.
– Em muốn hỏi.
– Em hỏi đi.
– Trong giờ chính trị chúng em được kể rằng người dân ở các nước tư bản sống trong sự cùng cực, sắp chết đói. Em có tính sơ qua, mọi thứ đều khớp. Tỷ phú ở Mỹ có, nhưng họ rất ít. Phải không ạ?
– Đúng.
– Triệu phú cũng có, họ ít, nhưng dù sao cũng nhiều hơn tỷ phú. Những người trung lưu – dân buôn bán, thợ làm tóc – chắc phải nhiều hơn triệu phú nhiều lần, công nhân – nhiều hơn người buôn bán nhiều lần. Phải vậy không ạ?
– Đúng. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. ở đó người ta sống rất khổ.
– Đúng vậy sao? Nếu vậy thì, theo tính toán sơ bộ, hàng ngày trên đường phố, thí dụ như của New York, có hàng trăm nghìn người thất nghiệp chết vì không có gì ăn. Đó là chưa kể những công nhân có việc nhưng vẫn chết đói. New York ngập trong xác chết! Phải có ai đó luôn đi gom xác chết. Em không hiểu những người Mỹ đó. Đi lại trên phố giữa các xác chết và những người sắp chết đói. Tại sao cho đến giờ họ vẫn chưa lật đổ bọn bóc lột và bọn tư bản?

Thầy giáo rời bàn, lại ngồi xổm trước mặt tôi. Thầy nhìn tôi rất lạ và mỉm cười. Thầy gần như cười chế diễu vấn đề nghiêm túc của tôi. Hình như hôm nay tâm trạng của thầy rất vui.
– Em bao nhiêu tuổi?
– Thầy cũng biết rồi còn gì, mười tuổi.
– Thầy biết, thầy biết, – thầy giáo nói giọng phấn chấn. – Không quá sớm với em để suy nghĩ về những chuyện này sao?

Tôi im lặng.
– Em đừng giận. Điều này vẫn còn quá phức tạp đối với em.

Thầy giáo đứng dậy và đi ra cửa. ở cửa, thầy quay người lại, nhìn chăm chú và nghiêm khắc như thể lần đầu tiên trông thấy tôi.
– Không được nói với ai, em nghe rõ chưa, không được nói với bất cứ ai về đề tài này. Em đã là một cậu bé lớn, em cần phải hiểu.

Hôm sau thầy đến bên tôi, cúi xuống đặt lên bàn một cuốn sách dầy rất đẹp.
– Em hãy đọc đi. Đó là một cuốn tiểu thuyết lịch sử nghiêm túc. Thầy biết là em sẽ thích.

Thịt băm viên

Tôi nghe lời người lớn, luôn nghe lời người lớn. Cuối mỗi năm học, tôi được long trọng trao bằng khen “vì thành tích học tập xuất sắc và hành vi mẫu mực”. Quả là tôi học rất giỏi, còn khái niệm “hành vi mẫu mực” có nghĩa là tôi không bao giờ cãi lại thầy cô. Giao tiếp với thầy cô thật đơn giản: họ luôn luôn nói dối. Họ kể cho chúng tôi nghe hàng giờ về những chuyện hoàn toàn không cần thiết và vô bổ. Họ yêu cầu chúng tôi kể lại tất cả những điều đó trên lớp. Tôi có trí nhớ tốt, tôi có thể dễ dàng nhắc lại bài giảng. Các thầy cô nghĩ rằng tôi đã rất cố gắng. Những con người lạ lùng. Tôi thích việc học ở trường, ở đó tất cả đều là trò đùa. Chúng tôi được phát những cuốn sách nhỏ vẽ tranh đẹp đẽ, vở có dòng và vở kẻ ô ly. Trường học là một trò chơi. Tôi chơi trò chơi đó một cách hứng thú.

Nhưng cần phải nghe lời mọi người lớn. Khó nhất là nghe lời các bảo mẫu. Những điều viết trong các cuốn sách thông thái với những bức tranh đẹp không làm họ quan tâm. Có học thuộc lòng bài thơ của Puskin hay công thức toán học cũng chẳng thay đổi được gì. Người ta chỉ đòi hỏi ở tôi một điều: càng ít nhờ giúp đỡ càng tốt. Từ khoảng lên năm tuổi, tôi đã được bảo rằng: “Mày lúc nào cũng chỉ có ăn thôi, còn chúng tao thì phải bê mày. Mày chẳng có tí tự trọng nào hết. Cái bọn mọi đen đó đẻ con, giờ phải bế nó suốt đời. Và chúng ta, những mụ đàn bà Nga ngu ngốc, tốt bụng, thế cho nên cứ phải chịu đựng chúng, chăm sóc chúng. Còn cha mẹ chúng, những kẻ khôn ngoan, đã đi về Châu Phi rồi”. Và ngày lại ngày, tôi nghe mãi cái điệp khúc của họ về lòng tốt và sự thương hại, về cha mẹ da đen của tôi. Hơi nực cười, nhưng những lời đó tôi đã phải nghe ở khắp nơi trên đất nước Liên xô – trong các cô nhi viện, trong các bệnh viện, trong nhà dưỡng lão. Như thể họ nói theo một sự mách bảo bí ẩn vô hình, như một bài học trẻ con, như một lời nguyền rủa.

Tôi đã cố gắng đến mức tối đa. Nhưng tất cả những gì mà tôi có thể, đó là ăn và uống ít hơn. Làm sao sống mà không ăn, tôi không biết. Chẳng có ai để hỏi cả. Hỏi thầy cô cũng vô ích, họ không phải là những người thầy đích thực, họ không phải đổ bô cho chúng tôi. Qua các bảo mẫu tôi được biết, công việc của giáo viên nhẹ nhàng hơn nhiều, mà lương lại cao hơn. Theo quan điểm của các bà bảo mẫu, các giáo viên được trả lương chẳng vì cái gì cả. Tôi hoàn toàn đồng ý với các bà bảo mẫu về chuyện này. Kể chuyện cổ tích từ những cuốn sách đẹp chả khó khăn gì, đổ bô mới khó. Điều này thì tôi hiểu rất rõ.

Nhưng đôi khi thầy cô cùng có những tác dụng nhất định. Những cô giáo tốt bụng mang từ nhà đến cho tôi sách và tạp chí. Trong một cuốn tạp chí phụ nữ, tôi đọc được về ăn kiêng. Để không tăng cân cần phải loại bỏ khỏi khẩu phần ăn các thực phẩm từ thịt và bột. Tôi ngừng ăn bánh mì và mì ống. Thịt chúng tôi chẳng mấy khi được ăn, nhưng thỉnh thoảng cũng được ăn thịt băm viên. Thật khó để từ bỏ thịt băm viên, nhưng tôi đã làm được. Một cuốn sách thông thái về tình báo đã giúp tôi. Trong cuốn sách đó nói rằng người đàn ông chân chính cần phải rèn luyện ý chí hàng ngày. Và tôi đã rèn luyện. Đầu tiên tôi rất thèm ăn, sau đó tôi quen dần. Khi người ta mang bữa ăn đến, tôi chọn lựa một cách vô thức những gì có thể được ăn, và ăn nếu có thể ăn. Thường thì tôi phải giới hạn bằng nước quả và một vài thìa cháo. Tinh thần tôi có khá hơn. Giờ tôi đã làm mọi chuyện một cách đúng đắn, chỉ có điều lúc nào cũng thấy buồn ngủ, còn ở trường đến tiết thứ ba là tôi không còn suy nghĩ được gì nữa, đầu óc quay cuồng. Một vài lần tôi đã ngất ngay trên lớp.

Một hôm tôi bị đau bụng và không kịp bò tới nhà vệ sinh. Bà bảo mẫu đem tôi tới nhà vệ sinh, đặt xuống sàn và bắt đầu dạy dỗ tôi. Bà ta hét lên, nào là tôi là đứa tồi tệ, nói về “con đĩ nhọ”, về việc tất cả bọn họ đã quan tâm đến tôi thế nào, tôi là kẻ vô ơn ra sao. Tôi câm lặng. Nói gì cũng vô nghĩa. Tình huống tương tự đã từng xảy ra không chỉ một lần. Khóc và van xin thương hại cũng vô ích, mọi từ ngữ đều vô nghĩa bởi một lý do duy nhất – cái quần bẩn của tôi. Bà ta la mắng tôi mỗi lúc một to, cúi xuống bên tôi, rung rinh đôi má xệ, phun nước bọt. Tôi câm lặng. Tôi có thể nói gì đây? Quả tình bà ta có lý. Tôi quá béo và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến ăn. Với cái tuổi mười một, tôi đã nặng gần mười bảy cân. Tôi không thể thanh minh. Tự tôi cũng lên án bản thân vì sự mềm yếu. Hai ngày trước tôi đã chót ăn một miếng thịt băm viên. Tôi không muốn ăn nó, quả tình không muốn ăn. Tôi nghĩ rằng chỉ ngửi một tí thôi, sau đó cắn một miếng nhỏ. Và không để ý là đã ăn hết cả miếng thịt.

Tôi câm lặng. Khi đó bà ta dùng những ngón tay múp míp bóp đầu tôi và ấn vào cái quần bẩn.
– Mày cứ im như hến thế. Dù sao cũng phải nói gì đó chứ. Hãy xin lỗi, hãy hứa rằng mày sẽ không thế nữa. Hãy nói gì đi chứ.

Bà ta dí mũi tôi vào chỗ phân và nhắc lại, hạ giọng: “Nói đi, nói đi, nói đi”. Tôi có thể nói được gì? Tôi hiểu rất rõ người ta muốn ở tôi không phải là những lời nói suông – điều gì tôi cũng đã thử nói rồi. Bà bảo mẫu mong muốn, thực sự chỉ mong muốn duy nhất một điều: muốn tôi có thể tự mình đi vệ sinh. Tôi không thể hứa được điều đó, bởi vậy nên tôi câm lặng.
– Hãy nói đi, nói đi, nói đi. Mày có nói không, có nói không hả? – bà ta đơn điệu nhắc lại. – Nói đi, nói đi, nói đi. – Giống như trong một bộ phim chiến tranh, có cảnh viên sĩ quan người Đức hỏi cung một chiến sĩ tình báo dũng cảm của Nga. Sĩ quan Đức. Người Đức.

Bỗng nhiên tôi bật ra một câu tiếng Đức đơn giản: “Rusish schwein”.
– Du bist rusish schwein (*) , – tôi kêu lên điên cuồng tuyệt vọng. – Du bist rusish schwein. Rusish Schwein. Rusish Schwein. Rusish Schwein. Bọn Đức bắn bố mẹ bà là phải quá rồi. Lẽ ra họ nên bắn cả bà nữa.

Đó chỉ là những lời nói, chỉ là những lời nói mà thôi. Nhưng chúng có hiệu quả. Người phụ nữ bối rối. Khi còn là đứa trẻ, bà ta đã phải sống dưới sự chiếm đóng của quân Đức, đã trải qua nạn đói sau chiến tranh. Tôi biết tôi đã chạm vào nỗi đau của bà ta.

Tôi đã quen với sự tàn phế của mình. Chỉ đôi khi trong tôi thoáng nổi lên khát vọng có thể đứng được trên đôi chân. Khát vọng đó thường xuất hiện một cách ngẫu nhiên, từ đâu đó trong sâu thẳm phần thú con người tôi. Trong giây phút ấy, tôi khát khao được cầm trong tay phải một con dao nhọn và thọc vào cái bụng mỡ của bà ta. Đâm liên tiếp. Đâm nát ổ bụng bà ta để trả hận.

Tôi bật khóc. Khóc và gào lên. Ném vào mặt mụ đàn bà ngu ngốc những lời xấu xa và bất công. Gào những câu chửi tục, cố gắng làm bà ta đau đớn hơn nữa.

Cô giáo đi ngang qua. Cô nghe tiếng kêu, ghé vào, nhìn thấy tôi nằm trần truồng trên sàn xi măng, ngập trong phân và nước mắt. Cô hiểu ra tất cả, làm ầm lên. Những người lớn tốt bụng rửa ráy cho tôi, đem tôi vào giường. Cô y tá tới, mang theo kim tiêm.

– Yên nào, cậu bé, rồi sẽ ổn cả thôi. Cô sẽ tiêm cho cháu một mũi và cháu sẽ ngủ ngay.
– Tránh xa ra, đồ chó, đồ bẩn thỉu. Mày là người Nga. Tao căm thù mày. Tao căm thù tất cả người Nga. Đồ phát xít, đồ khốn nạn. Tiêm à? Tiêm đi, nhưng không phải loại này, mà loại thực sự cơ, để chết đi. Tôi là thằng bé nhọ, còn các người là người Nga. Vậy thì hãy giết tôi đi và đừng có hành hạ tôi thêm nữa. Các người thậm chí tiếc tôi cả thuốc độc. Các người còn tồi hơn cả bọn phát xít. Bọn phát xít luôn giết người tàn tật, còn các người lăng nhục họ.

Người ta tiêm cho tôi một mũi. Tôi vẫn gào thét. Tôi kể lể mọi chuyện: chuyện ăn kiêng, chuyện tôi béo. Tôi hứa với họ rằng sẽ không ăn gì hết nữa. Cô giáo và cô y tá lắng nghe tôi mà không hiểu gì cả. Họ cố gắng làm tôi bình tĩnh lại.

Mũi tiêm đã có tác dụng. Tôi nhanh chóng thiếp đi và tỉnh dậy vào trưa ngày hôm sau. Lòng thấy thanh thản và yên ổn. Bữa trưa có thịt băm viên. Tôi quyết định ăn hết. Tôi ăn thịt băm viên, ăn súp và bánh mì. Cứ để cho tăng cân, mặc kệ. Tôi chả thiết gì nữa.

(*) Tiếng Đức: đồ lợn Nga. ND

Leave a Reply