Lời người dịch. Ngày 17/7/2025 là đúng 11 năm chiếc máy bay MH17 bị quân lính Putin bắn hạ trên bầu trời Donetsk, khiến tất cả 298 hành khách và phi hành đoàn thiệt mạng, trong đó có một gia đình người Việt. Nhân dịp đó, nhà văn Sergey Loiko đăng truyện ngắn này trên Fb cá nhân, tôi đã dịch để giới thiệu đến các độc giả VN.
Sergey Loiko
KHẢI HUYỀN
Tỉnh Donetsk. Tháng Bảy

Đã lâu rồi trời không mưa. Ruồi nhặng vo ve mệt mỏi và rụt rè, lặng lẽ đậu trên đôi tay trần, khô héo của bà lão đang ngoan ngoãn khoanh trên đầu gối. Đôi tay như được làm từ da thuộc cứng, hằn sâu những nếp nhăn. Dường như nếu bà duỗi thẳng bàn tay, duỗi thẳng các ngón tay, da sẽ vỡ vụn như những mảnh đất sét. Các mạch máu hiện rõ trên người bà, như những đường nét xanh lam của các dòng sông và phụ lưu trên một bản đồ kẻ bị cháy xém, ướt sũng và khô héo. Vù vù và rung rung phần đuôi nhọn, mong nhanh chóng được giải cơn khát, những con muỗi vất vả xuyên thủng lớp vỏ chai sạn, và vì không tìm thấy máu, thất vọng bay đi tìm kiếm nguồn thức ăn khác.
Polina Trofimovna không để ý đến chúng. Bà hầu như không nghe thấy tiếng vo ve mỏng manh của chúng lơ lửng trong không khí và không cảm thấy vết đốt. Đôi mắt nửa mù không đeo kính của bà như hai cục thủy tinh thể lớn, tách rời, vô cảm, như thể bị mù. Với tấm lưng thẳng và đôi vai rộng, gầy gò, trông từ xa bà giống như một con bù nhìn trong vườn bị rơi mất mũ và mệt mỏi vì không tìm thấy mũ, ngồi xuống ghế dài nghỉ ngơi.
Dường như lớp da đã mục nát một nửa trên khuôn mặt gầy gò, dài ngoằng của bà gần như chỉ toàn là nếp nhăn. Những nếp nhăn chảy dài xuống má như những dòng suối khô; phía trên đôi môi mỏng như sợi tơ, không có máu, dường như dính chặt, một chiếc mũi tròn, không đều, che phủ bởi những lỗ chân lông rộng và cứng, từ đó lồi ra mụn trứng cá như mầm nhú trên một củ khoai tây cũ.
Bà lão mặc một loại giẻ rách nào đó, có chút gì giống một chiếc áo khoác giữa mùa, được khâu đi khâu lại, giặt đi giặt lại, không màu sắc và không hình dạng. Dưới chân bà, có thể nhìn qua giày cao su bọc đôi chân trần, những khúc xương tròn, nhẵn như sỏi, nhô ra từ lòng bàn chân và mắt cá chân.
Dường như bà đã ngồi như thế suốt 82 năm cuộc đời. Như thể không hề có cuộc sống. Nghĩa là, không có cuộc sống ở trong bà, cuộc sống trôi qua, chạy nhảy, bò lê ở gần đó – phía trước, bên cạnh, phía sau – trên bãi cỏ, trong bụi rậm, lùm cây, ngóc ngách và vườn rau. Những đứa trẻ hàng xóm quen thuộc, ngồi xổm trên bụi giữa đường, cố gắng bơm lốp xe đạp mục nát bằng bằng một cái bơm có ống rách – những cái xe đạp với xích đứt và chuông hỏng. Những người đàn ông và phụ nữ, hầu như không thể phân biệt được ai là ai, lê bước đến mỏ làm việc hoặc đến cửa hàng mua vodka, bánh mì và xúc xích. Trên đường về thì đã có thể phân biệt được họ: đàn ông loạng choạng và ngã. Phụ nữ kéo túi xách và bọn trẻ từ nhà trẻ. Và cứ thế mỗi ngày.
Rồi các mỏ lần lượt đóng cửa. Những người đàn ông vẫn còn cầm được búa và đinh thì bỏ đi làm thuê, còn những người ở lại thì uống rượu đến chết. Tuy nhiên, những người phụ nữ vẫn lê bước đến trạm xe buýt và ngồi lắc lư trên chiếc xe buýt PAZ màu vàng, chạy bước qua hầm mỏ “Tiến bộ” nay đã bị tiến bộ phá hủy để đến thành phố, nơi cho đến gần đây vẫn có thể tìm thấy ít nhất một số công việc, và các cửa hàng vẫn mở cửa. Quán rượu ở Vershki, có từ khi Polina Trofimovna chào đời, đã đóng cửa vào những năm 90. Nó đã ở đó suốt cuộc đời bà – và rồi biến mất. Như chưa từng tồn tại.
Vào mùa đông, bà hầu như không bao giờ ra ngoài. Bà nhóm lò sưởi, đan đi đan lại những chiếc tất bằng len thô màu xám đã mục nát như ký ức. Bà chỉ ra ngoài để đào cửa và hiên nhà từ dưới tuyết. Cháu gái bà, Ninka, người mà Polina Trofimovna gọi là con gái đỡ đầu, nhận lương hưu trong thành phố và mua cho bà những thứ cần thiết nhất.
Cha bà không bao giờ trở về từ mặt trận trong Chiến tranh Đức thứ hai. Họ thậm chí chưa bao giờ nhận được một lá thư. Mẹ bà làm thợ giặt cho gia đình người Đức. Sau chiến tranh, bà bị lưu đày đến một khu định cư ở Norilsk, và Polya, lúc đó mới mười hai tuổi, đã ở với dì và bà ngoại. Mẹ bà không bao giờ trở về từ miền Bắc. Còn lại hai lá thư. Sau phổ thông, Polina xin việc ở Torez làm công nhân đánh dấu tại một nhà máy hương liệu thực phẩm. Bà làm việc ở đó cho đến khi nhận được lương hưu. Bà không tích lũy được đồng nào, dù làm đến kiệt quệ đôi tay.
Người chồng đầu tiên của bà yêu bà, say xỉn và đánh bà. Một mùa đông, ổng say xỉn và băng qua sông vào ban đêm sau ca làm việc, trượt một chân xuống hố và ngủ thiếp đi. Ổng tỉnh dậy và thấy bàn chân đông cứng trong băng. Ổng giẫy giụa và la hét. Mọi người chạy đến. Họ phá băng bằng rìu và xà beng. Họ cắt cụt chân ổng. Ổng trở nên vô cùng hung dữ. Uống rượu suốt ngày. Đe dọa, chửi bới, mắng mỏ mọi người vì ổng không có con và khuyết tật. Hễ say là ngay lập tức vớ dao hoặc rìu. Nếu có hai chân, hẳn ổng đã giết người. Nhưng vết hoại tử lan lên trên, và ổng chết.
Bà đã vô cùng đau buồn. Gào thét vì đau buồn. Bà yêu ổng. Mặc dù ổng là một kẻ say xỉn và gây rối, nhưng ổng là của bà, là người thân. Việc ổng cầm rìu đâu phải chuyện nghiêm túc. Tính ổng thế, tất cả bọn họ đều vậy, ngay cả ở thành phố. Người chồng thứ hai thì tử tế. Không uống nhiều chỉ trừ những ngày lễ. Để sám hối. Ổng làm thợ cả tại Nhà máy chế tạo khung đỡ hầm mỏ Torez. Cuối những năm 70 ổng đã đến mỏ Rosa Luxemburg – chính là nơi họ đã lắp đặt hệ khung đỡ – để kiểm tra, nhưng đã bị mắc kẹt trong một vụ sập hầm. Họ kéo được ổng ra sau hai tháng. Các hài cốt được chôn cất trong một quan tài kín. Không một giọt nước mắt. Họ đã trả ông một khoản bồi thường – những 120 rúp. Từ văn phòng, bà ghé cửa hàng – để mua thứ gì đó cho đám tang: một ít cá muối, một ít thịt trắng, sáp màu, – và bị lấy trộm ví cùng toàn bộ số tiền.
Rồi bà bị cắt giảm khi gần đến tuổi hưu, và ngày này qua ngày khác, sau tất cả cuộc sống méo mó này, bà ngồi đó, lưng thẳng như que củi trên hiên nhà. Như một bức tượng. Lúc thì bằng gỗ, lúc thì bằng đất sét, lúc thì bằng đá. Tùy thuộc vào thời tiết. Và thời tiết mùa hè của cái năm chiến tranh ấy thì khô và ngột ngạt.
Ngày hôm đó bà cũng ngồi như vậy, chờ đợi điều gì đó. Hoặc là mưa hoặc là Chúa giáng trần lần thứ hai. Và một trong hai điều đó đã xảy ra. Phía xa ngoài rìa cánh đồng, có tiếng nổ như sấm rền, rồi một trận mưa lớn những xác người, tay chân, đầu, va li, ghế và những mảnh sắt đổ xuống ngoại ô Vershki, trên đường, trên cánh đồng và khu rừng, rơi thẳng từ trên trời xuống thành một đám khói lửa.
– Thánh! Thánh! Chí Thánh! – bà đứng dậy, khó khăn lắm mới nhấc được những khúc xương cứng đờ ra khỏi ghế, làm dấu ba lần, quay người lại và cũng với tư thế thẳng lưng đó bước vào nhà. Trong nhà, bà tắm dưới chiếc chậu kẽm treo trên tường, rửa chân, thay một chiếc váy ngủ bằng vải lanh trắng dài đến gót chân, lấy từ TV ra một cuốn sách cũ nát có trang kẹp dấu bằng đôi kính, dùng ngón tay chai sạn, cong queo bóp nhẹ, đeo kính vào, nằm xuống giường, ngay trên tấm chăn loang lổ những mảng màu bạc màu, chớp mắt, làm quen với bóng tối lờ mờ, tiếng hú của còi báo động và tiếng la hét trên phố rồi bắt đầu đọc: “Tiếng kèn của thiên thần thứ năm nổi lên. Tôi thấy một ngôi sao từ trời sa xuống đất; ngôi sao ấy nhận được chìa khóa của giếng vực thẳm. Ngôi sao mở giếng vực thẳm, và một đám khói từ giếng bốc lên, giống như khói một cái lò lớn, khiến mặt trời và không khí tối sầm lại vì khói của giếng ấy. Từ đám khói ấy, châu chấu bay ra khắp mặt đất. Chúng nhận được quyền phép như quyền phép của bọ cạp trên mặt đất…”
Dân quân, một đội khoảng hai mươi người, đi trên một chiếc xe jeep và một chiếc xe tải, đã đến Vershki nửa giờ sau đó.
– Deder, em đây, Đào Bới đây! – Alexey Chepurnykh, nghiên cứu sinh ngành Khảo cổ học và Lịch sử Địa phương, Khoa Lịch sử, Đại học Quốc gia Tomsk, một tình nguyện viên, một người lãng mạn của “thế giới Nga” và đồng thời là đại đội trưởng của Tiểu đoàn Đặc nhiệm Độc lập DPR, hét vào ống nghe bằng giọng mỏng, cao, gần như giọng nữ. – Anh không biết chuyện gì đang xảy ra ở đây cả! Một bữa tiệc linh đình!
– Chuyện đ… gì vậy? – Deder, chỉ huy đồn trú Torez, một cư dân địa phương, là một người không dễ bị kích động. Trước khi trở thành chỉ huy chính của lực lượng dân quân ở Torez, lão từng là phó giám đốc an ninh tại Trại giam số 97 ở Makeyevka. – Đme, mày nói tiếng người được không? Hay cần phiên dịch?
– Deder, ở đây… – Đào Bới ngập ngừng, bỏ chiếc mũ lưỡi trai kiểu Chiến tranh Thế giới thứ hai ra, lau khuôn mặt gầy gò, đỏ ửng, không râu với một cái mụn nhọt to tướng đang mưng mủ trên cằm, rồi ngập ngừng tìm từ ngữ thích hợp, anh ta hét lên: – Địa ngục trần gian! Cướp bóc và hôi của!
Anh ta định thêm từ “đme” vào và thậm chí đã nín thở để nói, nhưng lại không thành công như mọi lần. Alyoshenka, như tất cả các cô gái trong khoa vẫn trìu mến gọi anh ta (và anh ta là người đàn ông duy nhất ở đó), không biết chửi thề và chưa bao giờ thử làm vậy trước khi đến mặt trận Donbass. Nhà khảo cổ học với biệt danh “Đào Bới” thuộc về một tầng lớp trí thức Đông Siberia đang mai một, những người kế thừa truyền thống từ những nhà cách mạng tháng 12 lưu vong, và có lý do để tin rằng vốn từ vựng của mình đủ để diễn đạt suy nghĩ mà không cần dùng đến những từ cặn bã.
– Nói tao biết nào, – người nghe ngắt lời anh ta. – Đấy là máy bay quân Ukraine?
– Em không biết gì về máy bay, nhưng có hàng chục, nếu không muốn nói là hàng trăm người chết ở đây, khắp nơi, – Đào Bới trả lời. – Theo em, một chiếc máy bay chở khách đã rơi. Anh hiểu chứ, Deder?
Deder im lặng. Không ai biết tên thật của Deder. Chỉ Deder và Deder. Hoặc là tên riêng, hoặc là họ, hoặc là mật hiệu. Trong giao tiếp cá nhân, cấp dưới của lão gọi lão là “đồng chí Deder”. Trên radio và điện thoại – chỉ Deder, như một mật hiệu. Deder đích thân bổ nhiệm nhà khảo cổ học làm đại đội trưởng, như lão nói, “cho vui”, “còn nghiêm túc mà nói”, thì để lão “có ít nhất một đại đội trưởng không phải là kẻ ngốc hay đần”. Thực tế, các đại đội trưởng khác – một cựu tù địa phương và bốn cựu quân nhân từ Nga – không hề ngốc, chỉ là Deder, theo định nghĩa, gọi tất cả những người tình nguyện địa phương là “ngốc” và những người ở nơi khác đến là “đần”, mà không hề đưa ra bất kỳ đánh giá đặc biệt nào trong những khái niệm này. Deder kết hợp giữa thiên hướng tàn bạo – một phẩm chất được hình thành qua nhiều năm làm việc trong hệ thống cải huấn – với khiếu hài hước, mà lão cho là lành mạnh, của một người lính, và sự khinh miệt loài người. Ví dụ, lão thích dẫn những tù nhân Bander ra ngoài để xử bắn, đặt họ quay mặt vào tường, và ngồi cùng đội “xử bắn” ở bức tường nhà tù đối diện, gần tòa nhà của trại giam trước khi xét xử. Họ im lặng, hút thuốc, nhìn tù nhân, chờ họ tè dầm, ỉa đùn, hoặc bất tỉnh. Sau khi đã thỏa mãn thú vui, họ sẽ đưa “tử tù” trở lại phòng giam. Tuy nhiên, để cuộc sống không ngọt ngào với tù nhân, thỉnh thoảng họ bị bắn thật. Và không chỉ có tù nhân. Có lần Deder đích thân bắn lính của mình. Ngay trước đội hình. Tên cướp xấu số bị một bà lão lòa nhận diện, bà ta bảo hắn đã cướp căn hộ của bà ta.
Lính vừa nể vừa sợ Deder. Đào Bới cảm thấy mình với lão giống như chính ủy Furmanov với Chapayev. Anh ta là cấp dưới duy nhất dám tranh luận với Deder. Kể cả về những vụ hành quyết ngoài vòng pháp luật. Ban đầu, Deder thấy điều này thật buồn cười. Sau đó, chán ngán việc phải tranh luận với “kẻ mọt sách” về tài hùng biện, lão chấm dứt cuộc tranh luận: “Tao là tòa án, công tố viên, thẩm phán và luật sư bào chữa, hiểu chưa? Và chúng ta không cần bất kỳ luật sư bào chữa nào khác.”
– Mày có chắc là máy bay dân sự không, Đào Bới? – Trong những khoảnh khắc đặc biệt quan trọng, Deder chuyển từ giọng surzhyk sang giọng thuần Nga, thậm chí không có âm “ghe”. – Chắc 100%?
– Không nghi ngờ gì, – Đào Bới trả lời. – Tất cả các thi thể và bộ phận đều mặc quần áo dân sự. Rất nhiều phụ nữ và trẻ em. Không có vũ khí hay đạn dược. Tất cả vali và túi xách đều là dân sự. Có chữ “Airways” được viết trên mảnh vỡ cánh máy bay.
– Chữ gì?
– “Airways”
– Là cái đ. gì?
– “Hãng hàng không.”
– Chả lẽ viết cái đ. gì khác? Đường, dme, sắt chắc?
– Ý em là, đó là máy bay dân dụng. Trên máy bay quân sự không viết “Hãng hàng không”
– À, ra ý mày là vậy. Đme, bắn trúng, đme…
– Anh bảo gì?
– Không có gì. Quên đi, đme. Thế mày bảo cướp bóc cái đ. gì ở đó?
– Dân địa phương đang cướp các xác chết. Cởi hết quần áo, trang sức, đồng hồ. Lục lọi hành lý, lấy đồ.
– Bắn ngay tại chỗ, đme!
– Nhưng chỉ toàn phụ nữ và trẻ em!
– Tao đang nói về dân địa phương, đ. phải hành khách!
– Em cũng nói về dân địa phương. Người già, phụ nữ và trẻ em đang làm loạn. Và còn cả một đội cứu hỏa từ Torez nữa. Bọn chúng dập đống đổ nát đang cháy, bị hết nước, giờ bọn nó cũng chạy quanh cánh đồng, lật xác chết, kéo hành lý về xe.
– Cho bọn nó tỉnh lại đme. Bắn một thằng, đme, để bọn nó bỏ chạy! Hoặc, đme, bắn chỉ thiên! Và đợi tao đến, đme! Mày có bao nhiêu lính?
– Mười tám.
– Đme, hai mươi tám người của Panfilov đã phá hủy mười bốn xe tăng phát xít đme. Còn mày, đme, cả trung đội mà đ. thể giải tán dân thường?! Tao đến ngay. Giữ vững phòng thủ, đme, không cho thằng nào đến gần! Tìm mấy cái hộp đen, đme!
– Trông thế nào?
– Mấy cái hộp, đme! Hộp, đme, đen! Đen! Hiểu chưa?
– Hiểu rồi.
Deder cúp máy và suy nghĩ. Lão chỉ hiểu được một điều từ câu chuyện của “kẻ mọt sách” – mọi thứ rất tệ. Lão không biết chuyện gì đã thực sự xảy ra, máy bay của ai và cụ thể ai đã bắn hạ nó, nhưng lão hiểu rằng hoặc là dân quân đã bắn, điều này khó có thể xảy ra, hoặc… Nhưng chắc chắn không phải là quân U. Deder lau mồ hôi trán bằng mu bàn tay, đứng dậy khỏi bàn và bắt đầu chuẩn bị rời đi.
Như bất kỳ kẻ khốn nào, điều đầu tiên lão làm là tính toán những hậu quả có thể xảy ra cho bản thân. Theo ước tính của Deder, sẽ không có chỉ huy nào gây khó dễ cho lão vì chuyện này. Lão không quan tâm đến những chỉ huy người Donetsk, vì lão chỉ là cấp dưới của họ trên hình thức, còn Rostov thì cách xa Torez. Không nói đến Moscow.
– Biết làm sao… – nhà khảo cổ học cất điện thoại và rút khẩu TT ra khỏi bao. — Chúng ta sẽ bắn.
Nhưng ngoài anh ta, chẳng còn ai khác để bắn. Mọi chiến sỹ của anh ta, với đủ loại ngụy trang, áo giáp, áo gi-lê đeo súng máy sau lưng, đã giẫm đạp khắp cánh đồng mù mịt khói giữa đám cướp địa phương, tìm kiếm thứ gì đó kiếm lời. Chúng lật xác chết, nhặt nhạnh từng mảnh thi thể, lấy đi thứ gì đó rồi ném trở lại bãi cỏ chưa cắt đang cháy dở. Những kẻ duy nhất không tham gia vụ cướp là Đào Bới với khẩu súng lục trên tay và hai con bò với xương sườn nhô ra như khung xương, gặm cỏ cách ngôi nhà cuối cùng khoảng một trăm mét, mà sau đó là cánh đồng.
Khói đã phủ kín nửa bầu trời. Những bóng mây di chuyển trên cánh đồng, vương vãi xác chết và mảnh vỡ máy bay.
— Đây là tranh của Bosch, — nhà khảo cổ học thì thầm. — Hieronymus Bosch chính hiệu. Nguyên bản.
Mặt trời gần như biến mất trong màn khói đen.
“Có lẽ đây là hình ảnh nhật thực hiện ra trước mắt binh lính của Hoàng tử Igor,” chàng dân quân lãng mạn Alexei tiếp tục suy ngẫm và, xấu hổ vì những suy nghĩ không đúng lúc của mình, anh ta tiến về phía đám đông với khẩu súng lục trên tay.
Hai con quỷ nhỏ chạy ra từ đám khói về phía anh. Một con nhỏ hơn, con kia to hơn. Trong giây lát, Đào Bới nghĩ rằng đây chỉ là ảo giác và anh sắp phát điên. Anh mở chốt. Con quỷ lớn hơn đang đuổi theo con kia, tiến về phía Alexei. Cuối cùng, Đào Bới nhận ra chúng là những đứa trẻ khoảng tám hoặc mười tuổi. Cả hai đều đeo mặt nạ lặn trẻ em có ống thở. Một chiếc màu hồng nhạt, chiếc kia vàng tươi. Đứa đuổi theo xỏ chân nhái màu sẵm trên tay, và nó đang vẫy chúng một cách đe dọa, khiến Đào Bới bối rối. Với tiếng kêu ré lên bị át đi bởi mặt nạ và ống thở, những đứa trẻ chạy qua anh về phía ngôi làng.
Phía sau chúng, một bà lão mặc áo choàng vải bông phai màu và đi dép lê chân trần, vừa đẩy vừa chửi rủa, đang đẩy một chiếc xe nôi trẻ em với hai chiếc vali nhô ra ngoài. “Làm sao bà ta lại nhét chúng vào đó được nhỉ?” Chepurnykh nghĩ. “Người ta thật nhanh trí và tháo vát trong những khoảnh khắc hạnh phúc chiếm đoạt tài sản của người khác!” Viên chỉ huy dân quân cũng không ngăn cản bà lão xách va li. Bà cứ thế lao vút qua như một chiếc xe ngựa không tra dầu, không dừng lại hay ngước mắt nhìn anh ta.
Sau “chiếc xe ngựa cũ”, một bóng người to lớn lắc lư hiện ra từ trong làn khói, kẹp gì đó dưới nách, hai tay giữ chặt. Khi đến gần, nhà khảo cổ học nhìn thấy đó là một người đàn ông cao lớn say khướt với đôi vai rộng, trong bộ áo liền quần màu xanh bạc màu, rộng thùng thình, bên dưới là đôi chân dài, trần trụi, đầy lông với những vết trầy xước lớn trên đầu gối. Người đàn ông này không chỉ không mặc quần. Hắn còn đi chân đất. Dưới nách, hắn kẹp hai cánh tay gầy guộc đẫm máu với những mảnh xương trắng lòi ra.
Nhà khảo cổ học không biết rằng trước mặt mình là một huyền thoại sống của văn hóa dân gian địa phương, một cựu thợ mỏ than nổi tiếng, và giờ là một kẻ nghiện ma túy mạt hạng, Artem Karzukhin. Karzukhin trở nên nổi tiếng khắp vùng không phải vì hắn là một thợ mỏ đồng thời là một kẻ nghiện rượu không bao giờ xuống mỏ than mà tỉnh táo – điều này chẳng có gì ngạc nhiên. Hắn trở thành huyền thoại vì đã vượt qua cơn say bằng giật điện ngay tại mỏ than.
Trong mỏ đó, giống như hầu hết mọi nơi ở Donbass, người ta khai thác than anthracite. Đối với một người cao hai mét như Karzukhin, những chiếc xe đẩy trong mỏ trông như đồ chơi. Phía trên, dưới hầm than, có một sợi cáp trần. Phía trước xe đẩy là một chiếc xe điện mini có hình vòng cung. Vòng cung chạm vào dây cáp, điểm tiếp xúc thứ hai là đường ray. Karzukhin một tay nắm lấy dây cáp, tay kia nắm lấy thành kim loại của xe đẩy. Dòng điện rất mạnh, nhưng không gây tử vong cho hắn, nhưng các nhân chứng cho biết những tia lửa bắn ra từ mắt và tai Karzukhin, và cơ thể hắn run rẩy, quằn quại, giống như trong điệu nhảy của Thánh Vitus. Tuy nhiên, Karzukhin cũng cần một trợ lý cho màn trình diễn này để giúp hắn bỏ tay ra sau khi giải rượu bằng điện, điều mà không phải lúc nào cũng có thể làm được một mình, ngay cả với một người to lớn như vậy. Sau khi giã rượu theo cách này, Karzukhin tiếp tục làm việc hoàn toàn tỉnh táo và đôi khi đạt được hai hoặc ba chỉ tiêu. Hắn nằm trong số lao động tiên tiến. Hắn không được ghi danh vào Bảng Danh dự vì thói quen xấu của mình, nhưng những người thợ mỏ gọi hắn là “người tiên phong trong lao động nghiện rượu của chúng ta”.
Là một trong những người đầu tiên xuất hiện tại hiện trường thảm họa, Karzukhin cố gắng tháo nhẫn ra khỏi ngón tay của hai bàn tay đứt lìa mà hắn tình cờ gặp trên cánh đồng, nhưng không thể làm ngay được. Hắn không có dụng cụ. Hắn không thể xé toạc các ngón tay trước mặt mọi người. Vậy nên hắn xách hai cánh tay còn nguyên vẹn về nhà.
Khi Đào Bới nhìn thấy thứ mà tên quỷ golem này cầm trong tay, anh ta bắn một phát chỉ thiên cảnh cáo, rồi chĩa súng lục vào tay thợ mỏ. Hắn dừng lại và cười toe toét:
– Sao vậy, chỉ huy? Còn nhiều lắm. Ra mà nhặt.
– Đứng lại! – Chepurnykh hét lên bằng giọng mà anh thấy rất khủng khiếp. – Tao sẽ bắn!
Karzukhin dừng lại, lắc đầu và ném một cánh tay xuống chân tay dân quân:
– Này, đồ khốn, phần mày đây, đồ đồng tính khốn kiếp!
Chepurnykh lặng lẽ giơ súng lục lên cao hơn nữa, chĩa thẳng vào mặt Karzukhin. Khi ấy gã khổng lồ, đã hoàn toàn mất trí, làm một điều không ai ngờ tới, điều khiến tóc gáy chính hắn dựng đứng. Hắn túm lấy gốc cái tay bằng cả hai tay, giơ lên trước mặt, lắc đầu, gầm gừ như một con chó đói bị xích, và cắn ngập những chiếc răng vàng khè vào cánh tay.
– Đ… mẹ mày! – sinh viên khảo cổ học Chepurnykh thở dài.
Mắt nhắm nghiền, sau khi bắn hết băng đạn vào mặt tên điên, anh tự ngất đi và ngã xuống đất, trên bãi cỏ khô cằn, không được cắt tỉa, giống như Oleg Nhà tiên tri đã ngã xuống sau khi thấy hộp sọ của con ngựa yêu quý.
Bài gốc: link