Cây anh đào và cây sồi (phần 1)

Giới thiệu của người dịch

Đầu những năm 2000, khi FPT Software bắt đầu làm việc với khách hàng Nhật, anh Nguyễn Thành Nam CEO mang đến và đưa tôi cuốn “Cây anh đào và cây sồi” của Nhà sách Đông Tây của chú Đoàn Tử Huyến xuất bản. Chúng tôi đã đọc say sưa và hiểu ra nhiều thứ về văn hóa Nhật. Sau đó có bạn nào mượn rồi không trả lại.

Rất tiếc là bản dịch đó không được tái bản, tôi cũng chưa tìm mua lại được. Vì rất thích cuốn đó, nên tôi quyết định dịch dần và đăng tải ở đây. Hy vọng sẽ giúp những ai kinh doanh với Nhật bản có thêm những tri thức cần thiết. Bản dịch còn nhằm tưởng nhớ bác Ogawa Takeo (1939-2025), người thầy và người bạn lớn của FPT Software.

Nguyên tác tiếng Nga: Sakura i Dub (The Sakura and the Oak) của tác giả Vsevolod Ovchinnikov.

Lời tác giả

Số phận hạnh phúc nhất nhưng cũng khó khăn nhất đã xảy đến với hai trong số mười lăm cuốn sách của tôi. Đó là “Cành anh đào” và “Rễ sồi”, lần đầu tiên được in trên tạp chí “Novy Mir” vào những năm 1970 và 1980.

Chúng có thể được coi là hiện thân cho nguyên tắc sáng tạo của tác giả: thuyết phục người đọc rằng không thể đo lường cuộc sống của người khác bằng thước đo của mình, không thể chỉ dựa vào hệ thống giá trị và tiêu chí quen thuộc của mình, bởi vì chúng không hề là phổ quát, cũng giống như các quy tắc ngữ pháp của ngôn ngữ mẹ đẻ của ta. Nói một cách đơn giản, trước khi phán định về cuộc sống ở nước ngoài, chúng ta phải cố gắng hiểu tại sao người dân ở các quốc gia khác đôi khi lại cư xử khác với ta.

Nỗ lực phân tích tính cách dân tộc (national character) để lý giải về một đất nước xa lạ thông qua con người ở đó là một điều mới mẻ trong nền báo chí Liên xô thời bấy giờ. Nhưng vấn đề không chỉ nằm ở tính độc đáo của ý tưởng. Và không chỉ ở chỗ “Cành anh đào” được Alexander Tvardovsky xuất bản đầu tiên, khi mỗi số “Novy Mir” của ông đều trở thành một sự kiện trong đời sống tinh thần của đất nước. Mặc dù cả hai điều này chắc chắn đã làm tăng thêm sự cộng hưởng mà cuốn sách mang lại.

Có lẽ lý do chính khiến “Cành anh đào” trở nên nổi tiếng là một chuyện khác. Người đọc đã cảm nhận tác phẩm này như một lời kêu gọi hãy nhìn thế giới xung quanh mà không qua lăng kính của ý thức hệ. Lời khen ngợi lớn nhất với tôi lúc đó là lời của Konstantin Simonov:

– Đối với xã hội chúng ta, cuốn sách này như một luồng gió mới, giống như những bài hát của Okudzhava…

Nhưng đây chính là lý do tại sao Cành Anh đào, và mười năm sau đó là Rễ Sồi lại bị các ban ngành tư tưởng chỉ trích. Họ đã đánh chúng tan tác: đình chỉ công tác chuẩn bị in ấn, tháo bỏ các bảng in đã sắp chữ, yêu cầu thay đổi và cắt tỉa. Và tôi đã phải thỏa hiệp một số thứ.

Ở Nhật Bản, Cành Anh đào đã trở thành tác phẩm bán chạy. Ngay cả người Anh, vốn luôn hoài nghi về nỗ lực của người nước ngoài tìm hiểu bản sắc dân tộc của họ, cũng chào đón Rễ Sồi rất tích cực. Tuy nhiên, điều này không củng cố vị thế của tác giả mà ngược lại, làm tăng thêm vị thế của những người chỉ trích. Họ nói rằng không phải ngẫu nhiên mà những đối thủ về mặt ý thức hệ của đất nước chúng ta lại túm lấy những tác phẩm này. Họ nói, các cuốn sách đã tiếp tay cho kẻ thù vì đã lý tưởng hóa cuộc sống tư bản chủ nghĩa, và thiếu vắng cách tiếp cận có tính giai cấp. Đó là phán quyết chính thức cho cả hai cuốn sách. Phải đến năm 1985, sau nhiều lần bị từ chối, tác phẩm song đôi Anh đào và Sồi mới được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học.

Phiên bản này đã khôi phục lại văn bản gốc của tác giả. Ngoài ra, Quỹ Nhật Bản, tổ chức hoạt động nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia nước ngoài, đã mời tôi đến đất nước họ trong ba tháng vào năm 2000 “để cập nhật Cành Anh đào, một cuốn sách bestseller ở cả Nga và Nhật”. Điều này đã cho phép tôi viết một số chương mới, cũng như cập nhật các số liệu và sự kiện đã lỗi thời sau 30 năm.

Cành Anh đào. Người Nhật – họ là ai?

Những trang nhật ký

Tiếng bước chân vang lên phía sau tấm vách trượt mỏng. Có vài người bước vào phòng bên, đôi chân trần của họ nhẹ nhàng bước trên thảm. Nghe giọng nói, có vẻ là phụ nữ. Lúc chuẩn bị ngồi xuống, họ tranh luận rất lâu về các chỗ ngồi, nhường nhau những chỗ danh dự nhất. Rồi họ im lặng một lúc trong khi người hầu gái lạch cạch mở nút các chai bia và đặt đồ nhắm lên bàn. Và một lần nữa, tất cả lại bắt đầu cùng lúc lên tiếng, tranh lời nhau. Cuộc trò chuyện xoay quanh việc cắt cá, kiếm tiền từ nghề cá, về những âm mưu của người nhận, là người mà họ, những góa phụ, thấy khó có thể kiểm soát.

Tôi nằm sau bức tường giấy, háo hức lắng nghe từng lời. Rốt cuộc, chính mong muốn đắm mình vào cuộc sống vùng quê Nhật Bản đã đưa tôi đến ngôi làng này nơi tận cùng đảo Shikoku. Ngày mai, trước bình minh, khoảng ba giờ sáng, chúng tôi sẽ ra khơi cùng ngư dân để đánh cá. Tôi nghĩ ra trò này với hy vọng rằng có thể được sống vài ngày với một gia đình ngư dân. Nhưng hóa ra ngay cả ở một nơi xa xôi như vậy cũng có một nhà trọ. Họ để tôi một mình trong phòng và bảo tôi đi ngủ sớm để không ngủ quên.

Nhưng làm sao có thể ngủ trong cảnh hàng xóm như thế! Tôi trằn trọc trên nệm, căng tai lắng nghe, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của cuộc trò chuyện ở phòng bên cạnh. Trước mặt tôi thì sẽ không ai nói về cuộc sống một cách thẳng thắn như những người phụ nữ nghề cá này, những người tụ tập lại để ăn mừng ngày nhận lương. Nhưng có lẽ chính vào buổi tối hôm đó, tôi mới nhận ra rằng vẫn còn một bức tường không thể xuyên thủng che giấu thế giới nội tâm của người Nhật với tôi. Tuy nhiên, có một khoảnh khắc mà mọi thứ đột nhiên trở nên rõ ràng và quen thuộc, khi những giọng nữ say xỉn hòa quyện vào giai điệu quen thuộc:

…Và khi đằng sau sương mù
Chàng trai có thể nhìn thấy,
Trên cửa sổ nhà cô gái
Ánh đèn vẫn còn cháy…

Bài hát này đã đến được với họ như thế nào? Hay những ông chồng đã đem nó về từ nơi giam cầm ở Siberia, trước khi một cơn bão dữ dội quyết định số phận của những ngư phủ? Hay là những phụ nữ này là góa phụ chiến tranh và nghe được bài hát về sự cô đơn, chờ đợi và hy vọng từ người khác? Tiếng chai bia lại va vào nhau sau vách ngăn, cuộc trò chuyện lúc lắng xuống lúc lại trở nên sôi nổi. Nhưng tôi đã đánh mất mạch câu chuyện và nghĩ về suy nghĩ của mình. Tất nhiên, góa phụ ở đâu cũng là góa phụ. Nhưng ở đây không chỉ lời nói là khác: họ cảm nhận theo cách khác, họ tiếp cận cuộc sống theo cách riêng, có những hình thức khác nhau để thể hiện mối quan tâm và niềm vui. Liệu tôi có bao giờ có thể hiểu được tất cả những điều này?

Từ khi còn nhỏ tôi đã đọc được rằng buổi tối Paris có mùi cà phê, xăng và nước hoa. Hãy thử miêu tả mùi của một con phố đông đúc ở một thành phố Nhật Bản vào buổi tối! Ở góc một con hẻm, được chiếu sáng hoàn toàn bằng đèn neon quảng cáo các quán rượu, một bà lão đang ngồi bên lò nướng. Trên than hồng, những vỏ sò xoắn được đặt ra với phần đế hướng lên trên, bên trong có thứ gì đó màu xám đang sủi bọt. Bên cạnh mực khô và một số loại hải sản thơm ngon khác, còn có món trứng gà cực kỳ bình thường được nướng trong tro. Chỉ cách đó vài bước là một chiếc máy quen thuộc với tôi từ hồi ở Bắc Kinh, dùng để trộn hạt dẻ trong cát nóng. Và đây là mùi khoai tây nướng, gợi nhớ đến lửa trại của đội viên tiền phong. Nó tỏa ra từ một cấu trúc phức tạp trông giống như một cỗ xe chiến tranh. Ở đó cũng có một lò than, và phía trên lò, những củ khoai lang dài được treo giống như xác trên móc: hãy chọn rồi chiêm ngưỡng chúng được nướng trước mắt bạn. Một bóng phụ nữ lao vút ra khỏi quán rượu Bụi Sao. Ngồi trên mép một chiếc hộp để không làm nhăn chiếc váy vải voan bạc có đường cắt khó tin ở ngực và lưng, cô gái nheo mắt thích thú như một đứa trẻ, vội vàng ăn một củ khoai tây bốc hơi nghi ngút. Trong khi đó, bà lão bán hàng cẩn thận che đôi vai trần của cổ bằng thứ gì đó – có thể là để tránh cái lạnh buổi tối, hoặc để tránh ánh nhìn của người qua đường.

Hôm nay tôi đã tham dự lễ hội các nhóm nhạc đại chúng và mang về ấn tượng khó quên về những gì tôi thấy và nghe không chỉ trên sân khấu mà còn trong khán phòng. Những người sáng tác những bản nhạc thời thượng và phổ biến nhất đang cạnh tranh ở đây với tốc độ không thể tưởng tượng nổi. Nghệ sĩ độc tấu vừa mới chơi nốt nhạc cuối cùng, cơn cuồng nhiệt của tay trống vẫn chưa kết thúc, mà sàn sân khấu đã chuyển động để đưa các thành viên dàn nhạc vào phía sau hậu trường và ngay lập tức xuất hiện nhóm nhạc tiếp theo, cũng chơi hết mình, nhưng là gì đó riêng. Những thần tượng mới xuất hiện thay thế nhau với tốc độ chóng mặt. Không một giây phút nào ngơi tiếng trống và hợp âm guitar điện. Nhưng những tiếng ồn ào đổ xuống từ sân khấu chẳng là gì so với sự bùng nổ dữ dội làm rung chuyển cả hội trường mỗi phút. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng người ta có thể hét và dậm chân liên tục như vậy trong hai giờ đồng hồ. Chả lẽ đây chính là những cô gái Nhật Bản được biết đến như là hình mẫu của duyên dáng và kiềm chế, có khả năng kiểm soát hoàn hảo việc thể hiện cảm xúc của mình? Kia là một đám đông fan nữ cuồng nhiệt đang lao về phía sân khấu, xô đẩy nhau. Một cô gái cầm vòng hoa chen lên phía trước, nhưng không thể với tới được ca sĩ. Anh chàng hào phóng bước một bước đến mép dốc và hơi cúi xuống. Nhưng đúng vào khoảnh khắc cô gái rốt cuộc cũng quàng được vòng hoa vào cổ anh chàng, thì hàng chục bàn tay đã nắm lấy vòng hoa. Thần tượng bị vướng, mất thăng bằng và ngã thẳng vào đám đông fan nữ đang la hét, giống như một đàn cá săn mồi, bắt đầu xé anh ta ra từng mảnh để giành được một món đồ lưu niệm.

Sau khi chứng kiến ​​đủ những cảnh tượng như vậy, tôi đã thêm một điều nữa vào danh sách những nghịch lý ở Nhật Bản mà tôi không thể giải thích được. Có vẻ như giới trẻ Nhật Bản, vốn rất dễ bị ảnh hưởng bởi xu hướng thời trang phương Tây, đã hoàn toàn rời xa các chuẩn mực đạo đức và phong tục của thế hệ trước. Tuy nhiên, khi đến thời điểm cưới hỏi, mọi cô gái Nhật Bản lại một lần nữa trở thành hình mẫu của sự nhu mì, khiêm nhường và vâng lời. Trở thành cô dâu, cô ấy dường như một lần nữa tuyên thệ trung thành với luật lệ của tổ tiên mình. Điều này được thể hiện không chỉ ở chỗ, trái ngược với mọi mốt thời trang, trang phục và kiểu tóc của cô sẽ giống hệt những người đẹp mà Utamaro từng miêu tả trong các bức khắc của mình [1]. Điều quan trọng hơn là lòng trung thành với các giao ước thời cổ đại, được thể hiện ở sự phục tùng ý muốn của cha mẹ. Rốt cuộc, thế hệ mà thị hiếu được theo dõi chặt chẽ và các ý thích được chiều chuộng hết mức bởi các nhà sản xuất nhạc, các hãng phim truyền hình, rạp chiếu phim và các hãng thời trang, cũng là thế hệ mà dường như tự chọn thần tượng cho mình rồi lật đổ họ – lại cũng chính là thế hệ vẫn tiếp tục chấp nhận sự thiếu quyền lựa chọn trong câu hỏi quan trọng nhất đối với một người – câu hỏi về việc ai sẽ trở thành bạn đời, cha mẹ của những đứa con họ.

Mỗi buổi sáng, sự yên tĩnh của con hẻm Tokyo nơi tôi sống bị phá vỡ đầu tiên bởi những người đi xe đạp. Kia là người giao sữa – bạn có thể nghe thấy tiếng chai va chạm vào nhau trên giỏ xe của anh ta. Vài phút sau lại có người phanh lại. Rồi lại nữa, lại nữa. Đã đành có người giao sữa và người đưa thư báo. Nhưng những người còn lại là ai?

Một ngày nọ, tôi phải ra ga tàu lúc sáu giờ sáng. Tôi quyết định mang theo một số tờ báo. Tôi ra ngoài hộp thư – nó vẫn trống rỗng. Nhưng ngay lúc đó, một người đi xe đạp lao ra từ góc đường, phanh lại và đưa cho tôi một tờ Yomiuri.

– Thế những tờ báo khác ở đâu? – Tôi ngạc nhiên. – Vì chúng tôi cũng đặt cả Asahi và Mainichi.

– Đừng lo, họ sẽ tới sớm thôi, – cậu bé mỉm cười. – Rốt cuộc, tất cả chúng tôi đều bắt đầu đi giao báo cùng lúc. Không ai được giao sớm hơn – thỏa thuận là vậy!

Và quả thực, một hàng người đi xe đạp nhanh chóng xuất hiện ở con hẻm, mỗi người ném một tờ báo vào hộp thư của tôi.

Trước đó tôi đã biết rằng tờ báo của Đảng Cộng sản “Akahata” được chuyển đến tay độc giả không qua bưu điện mà qua các nhà hoạt động của các chi bộ địa phương. Điều này dễ hiểu. Không phải mọi độc giả của tờ báo cộng sản đều muốn cảnh sát biết tên và địa chỉ của mình. Nhưng vì lý do gì mà báo chí thương mại – tất cả những Asahi, Mainichi, Yomiuri – lại từ chối dịch vụ bưu chính và lặp lại nhau? Vì lý do gì mà mỗi tờ báo lại muốn có hệ thống phân phối riêng?

– Dù muốn hay không, chúng tôi cũng phải duy trì các văn phòng riêng ở khắp mọi nơi, để các tờ báo đối thủ không cướp mất độc giả của mình, – họ trả lời tôi.

Vậy là do cạnh tranh. Có vẻ như đây chính là chìa khóa vạn năng để giải mã những hiện tượng khó hiểu của báo chí tư sản Nhật Bản. Nhưng có đúng thế không? Chỉ cần đến Tokyo vài lần để tham dự các cuộc họp báo dành cho các nhà báo Nhật Bản, và bạn sẽ gặp một nghịch lý khác.

Mặc dù trong hội trường bạn thấy đại diện của nhiều cơ quan báo chí, phát thanh và truyền hình khác nhau, nhưng luôn chỉ có một người đặt các câu hỏi. Những người khác chỉ nghe và ghi chép. Ở nơi có vẻ là chỗ thích hợp nhất để ganh đua, thì hệ thống báo chí đa diện lại bất ngờ từ chối cạnh tranh, và thích tiến hành đối thoại như thể đang đại diện cho một người.

Các câu hỏi được thống nhất trước, và cùng nhau quyết định xem ai sẽ là người thay mặt cho tất cả để hỏi. Nhật Bản có một hệ thống câu lạc bộ báo chí, theo đó mọi cơ quan chính phủ, đảng phái chính trị hoặc tổ chức công cộng có nghĩa vụ chỉ đưa ra tuyên bố chính thức cho toàn thể báo chí, để những tin tức đó không thể trở thành tài sản độc quyền của bất kỳ cơ quan báo chí nào. Các tờ báo, đài phát thanh và truyền hình hàng đầu đều có đại diện tại Câu lạc bộ Báo chí của Thủ tướng, và Câu lạc bộ Báo chí của Sở chỉ huy các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Việc tham gia hay không chỉ được xác định bởi mối quan tâm đối với nguồn thông tin.

Nhưng vậy thì làm sao có thể nổi bật hơn so với đối thủ, làm sao có thể thể hiện sự độc đáo khi có sự cộng đồng hóa tư liệu một cách có chủ ý như vậy, khi có sự chuẩn hóa menu món ăn cho báo chí?

– Chúng tôi lý luận thế này, – họ giải thích, -thà có cùng thứ với người khác trong mười trường hợp còn hơn là tụt hậu so với mọi người chỉ trong một lần. Tất nhiên, hệ thống câu lạc bộ báo chí làm mất tính cá nhân của các tờ báo, nhưng mỗi tờ báo đều tự tin rằng họ sẽ không bao giờ bỏ sót bất cứ điều gì…

Một người lạ mặc quần yếm và đội mũ bảo hiểm xây dựng màu vàng bước vào, đưa cho tôi một chiếc hộp buộc ruy băng và một chiếc phong bì. Chiếc hộp đựng một bộ quà tặng gồm ba cục xà phòng vệ sinh nhiều màu, trong phong bì thì có lời xin lỗi viết tay: do phải thay đường ống nước trong hẻm nên họ sẽ phải đào một cái rãnh và làm phiền cư người dân bởi tiếng kêu lạch cạch của máy khoan búa khí nén.

Sau vụ đó, tôi và vợ lại nói chuyện về nét đặc trưng trong phép lịch sự của người Nhật. Ở đất nước này, thứ thôi miên bạn mạnh nhất và ngay lập tức là một sự lịch thiệp kỳ lạ. Khi trò chuyện, mọi người đều gật đầu với nhau, và khi gặp nhau, họ cúi chào rất trịnh trọng, đến mức ta cảm thấy nó chỉ phù hợp ở trong phim lịch sử và trên sân khấu kịch. Cảnh tượng này thực sự khó quên. Khi một người Nhật nhận thấy một người quen, họ coi nhiệm vụ của mình là phải đứng im tại chỗ, ngay cả khi điều đó xảy ra giữa đường và một chiếc xe buýt đang lao thẳng về phía họ. Sau đó, anh ta cúi gập người sao cho lòng bàn tay duỗi thẳng trượt đến đầu gối, và giữ nguyên tư thế này, anh ta chỉ ngước mắt nhìn lên một cách cẩn thận. (Đứng thẳng trước được cho là bất lịch sự, và những người cúi chào phải luôn để mắt tới nhau.)

Nhưng hãy dõi theo người đàn ông Nhật Bản, người vừa cúi chào bạn một cách trịnh trọng, khi anh ta lao nhanh trở lại đám đông trên phố. Một sự biến đổi bí ẩn ngay lập tức xảy ra với anh ta. Sự lịch thiệp và nhã nhặn của anh ta đã biến đi đâu mất! Anh ta đi xuyên qua dòng người và hoàn toàn phớt lờ tất cả. Nếu gặp người quen lần nữa, anh ta sẽ lại mỉm cười, chăm chú, cực kỳ lịch sự… với bạn.

Sự lịch sự của người Nhật chỉ giới hạn trong phạm vi các mối quan hệ cá nhân và không hề liên quan đến hành vi nơi công cộng – bất kỳ ai đến Nhật Bản đều dễ dàng phát hiện ra mâu thuẫn này, nhưng không dễ để tìm hiểu tận gốc.

Nhiều khi, ấn tượng đầu tiên về Nhật Bản bị bao trùm bởi cảm giác nuối tiếc. Du khách thấy dường như mình đã đến muộn, đã bỏ lỡ thời điểm mà người ta vẫn có thể nhìn thấy bộ mặt thật của đất nước này. Ngay cả khi biết rằng mình sẽ đến một trong những cường quốc công nghiệp hàng đầu, du khách vẫn mong đợi rằng những nét mới chỉ là sự bổ sung một cách nghịch lý vào những nét truyền thống, rằng những tàu chở dầu lớn nhất thế giới, những máy tính thông minh nhất và những con tàu nhanh nhất sẽ chỉ là sự tô điểm tương phản cho bức chân dung của một đất nước đẹp như tranh vẽ với những người phụ nữ mặc kimono và những ngôi đền cổ kính giữa những rặng thông uốn cong kỳ lạ. Thay vào đó, du khách sẽ nhìn thấy trước tiên cái mặt xấu xí nhất của nền văn minh hiện đại. Có vẻ như sự hỗn loạn của những ống khói nhà máy, những bức tường ám khói và đường ray xe lửa đã chôn vùi nước Nhật truyền thống đích thực. Khi đã tin rằng hình ảnh trên bưu thiếp và trên các tờ lịch quảng cáo là xa rời thực tế, người nước ngoài sẽ tự hỏi: Nhật Bản thực sự đã hiện đại hóa đến mức nào, và quá khứ của họ còn sống động đến mức nào? Nghĩa là, hình ảnh ngày hôm nay kết hợp với hình ảnh ngày hôm qua chính xác theo tỷ lệ nào?

Câu hỏi này không mới. Sự kết hợp giữa khả năng tiếp thu cái mới một cách ấn tượng với tính độc đáo của những truyền thống lâu đời đã trở thành chủ đề chính trong mọi tác phẩm viết về Nhật Bản trong suốt một thế kỷ qua.

Người ta không thể không nghĩ rằng tính mềm dẻo rõ ràng của bản chất Nhật Bản tương tự như các chiêu thức judo: lùi bước trước sức mạnh để đứng vững, tức là chịu thay đổi để vẫn là chính mình. Sự mẫn cảm của người Nhật liên quan đến hình thức nhiều hơn là nội dung. Họ dễ dàng và nhanh chóng vay mượn văn hóa vật chất, nhưng trong lĩnh vực văn hóa tinh thần thì đặc trưng của họ không phải là bắt chước, mà là bảo thủ, không phải là tiếp thu, mà là khép kín. Cái “nước Nhật rất Nhật” này hầu như không bị ảnh hưởng bởi thay đổi, hiện diện ở mọi nơi và trong mọi thứ. Giống như mặt trái của đồng xu.

Khi sống ở Tokyo, có vẻ như mùa đông ở Nhật Bản là thời điểm khô nhất và nhiều nắng nhất trong năm. Thật khó có thể tưởng tượng rằng bên kia những ngọn núi lân cận, trên bờ biển phía tây, tuyết rơi dày đến mức nhiều ngôi làng bị cô lập với thế giới bên ngoài trong một thời gian dài.

Đó chính là Nhật Bản trong mọi mặt. Sau nhiều năm nghiên cứu cuộc sống Nhật bản, bạn đột nhiên phát hiện ra rằng bạn chỉ nhìn những ngọn núi từ một phía, trong khi ở sườn đối diện, khí hậu lại hoàn toàn khác. Trái ngược với ấn tượng đầu tiên rằng diện mạo của Nhật Bản ngày hôm nay đã hoàn toàn lấn át ngày hôm qua, sự hiện diện vô hình của quá khứ vẫn còn được cảm nhận cho đến ngày nay. Giống như một hòn đá nằm dưới đáy suối, nó không nhô lên mặt nước mà bộc lộ qua những vòng nước xoáy và đổi dòng. Do đó, cần phải nhận thức được cả về sự tồn tại lẫn nguồn gốc của những “vòng nước xoáy” này.

Nếu không, sẽ không thể hiểu nổi tại sao giới trẻ siêu hiện đại, với sự nổi loạn cố ý, lại tỏ ra tuân theo ý muốn của cha mẹ trong việc lựa chọn bạn đời. Nếu không, sẽ không thể hiểu được tại sao, ở một đất nước mà các công đoàn nổi tiếng về tính đấu tranh, thì chế độ gia trưởng của công việc trọn đời lại được duy trì cho đến ngày nay. Nếu không, sẽ không thể hiểu được tại sao người Nhật lại có xu hướng đặt lòng trung thành cá nhân lên trên niềm tin cá nhân, điều này dẫn đến tình trạng gia đình trị không thể xóa bỏ trong chính trị và kinh doanh. Nếu không, sẽ không thể hiểu được tại sao người Nhật lại tránh cạnh tranh trực tiếp bằng mọi cách có thể, cố gắng che đậy bằng vẻ bề ngoài thỏa hiệp; tại sao họ thích giải quyết các vấn đề phức tạp và gây tranh cãi thông qua trung gian. Nếu không, rốt cuộc, không thể hiểu nổi làm sao mà những nét hoàn toàn trái ngược lại có thể kết hợp trong tính cách người Nhật: sự trang trọng và lịch sự trong môi trường gia đình với sự thô lỗ trên đường phố; sự nghiêm ngặt của các quy tắc ứng xử với đạo đức lỏng lẻo; sự khiêm tốn với sự tự cao.

Tính cách Nhật có thể so sánh với một cái cây mà người làm vườn đã chăm sóc trong một thời gian dài, uốn cong, buộc và đỡ nó. Ngay cả khi bạn tách cây ra khỏi các dây buộc và giá đỡ, thả tự do cho các chồi non, thì dưới tán cây phát triển tự do của chúng, những đường nét vốn có của thân và cành chính vẫn sẽ được giữ nguyên. Các nguyên tắc đạo đức, ngay cả khi chúng nằm sâu dưới bề mặt, vẫn là phép tính đại số của các mối quan hệ giữa con người. Biết được công thức của nó, chúng ta có thể dễ dàng giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống hiện đại.

Đảo Zipangu – ở phía đông, ngoài biển khơi. Nó cách đất liền một ngàn năm trăm dặm. Hòn đảo này rất lớn, người dân ở đây da trắng, đẹp và lịch sự. Họ là những kẻ thờ ngẫu tượng, độc lập và không thần phục ai. Tôi nói cho bạn biết, họ có rất nhiều vàng. Có một lượng vàng khổng lồ ở đây, và không có thương gia hay bất kỳ ai khác từ đất liền đến đây để lấy vàng đi, và đó là lý do tại sao họ có, như tôi đã nói với bạn, một lượng vàng rất lớn. Có rất nhiều ngọc trai ở đây, nó có màu hồng và rất đẹp, tròn, lớn. Nó cũng đắt như ngọc trai trắng. Họ cũng có những loại đá quý khác. Một hòn đảo giàu có và sự giàu có của nó là vô kể.

Marco Polo (Ý). Chuyến đi. 1298

Bên kia nước Trung Quốc về phía đông, giữa đại dương, cách bờ biển Trung Quốc khoảng bảy trăm dặm, có một hòn đảo rất lớn gọi là Nhật Bản. Và trên hòn đảo đó có nhiều của cải còn hơn ở Trung Quốc, mỏ quặng bạc, vàng và nhiều kho báu khác. Và mặc dù phong tục và chữ viết của họ giống với người Trung Quốc, nhưng họ vẫn là những người hung dữ và vì lý do này, họ đã hành quyết nhiều người theo đạo Jesus đến truyền đạo.

Trích từ bản ghi nhớ gửi Đại sứ Moscow tại Bắc Kinh Nikolai Safaria (Nga). 1675

Người Nhật Bản thật kém may mắn, giống như những anh hùng trong một số tiểu thuyết tầm thường của nền văn học của chúng ta: họ chỉ được miêu tả bằng một màu – hoặc hồng hoặc đen.

Hoa anh đào thường được trang trí trên nhiều chiếc quạt, kimono và furoshiki của Nhật Bản, đúng là nở hoa màu hồng. Tuy nhiên, tôi không nghĩ cuộc sống ở Nhật Bản có màu hồng; Tôi không tin vào sự dễ thương của các nhân vật trong tiểu thuyết của Loti, cũng như những đam mê của Madame Butterfly. Khi miêu tả người Nhật, một số tác giả phương Tây mỉm cười đầy cảm xúc và vẻ khinh thường; Đây chính là cách những người đàn ông độc thân cư xử với trẻ nhỏ, vì muốn thể hiện lòng tốt của mình với mẹ chúng… Đối với hàng triệu người tư sản phương Tây, Nhật Bản là một thế giới đồ chơi với các geisha và đèn lồng giấy, với diệc và rồng, với hoa diên vĩ và quạt, với hoa cúc và các nghi lễ.

Tất nhiên, có những chuyên gia ở phương Tây hiểu rõ về nghệ thuật Nhật Bản, có những nghệ sĩ kinh ngạc trước hội họa Nhật Bản cổ, nhưng một người Âu trung bình, độc giả của “Madame Butterfly”, thì không ngưỡng mộ thiên tài Nhật Bản, mà là “Nhật Bản tính” – một sự cách điệu đã đạt đến mức vô vị.

Cũng có những tác giả phương Tây tỏ ra phẫn nộ với Nhật Bản. Họ đã viết nhiều lần rằng người Nhật thiếu tính cá nhân’. Những định nghĩa khuôn mẫu xuất hiện: “Người Phổ châu Á”, “kẻ bắt chước muôn thuở”, “tổ kiến”. Trong sách của các tác giả này, Nhật Bản là đất nước của những samurai hăng máu chặt chém và đập phá, một đất nước của hara-kiri và tra tấn, phản bội và tàn ác, sự tuân thủ tuyệt đối và sự xảo quyệt ma mãnh.

Tất nhiên, vào những năm ba mươi của thế kỷ này, các tướng lĩnh Nhật Bản đã cố gắng tăng số lượng điệp viên lên gấp mười lần, và cảnh sát không tiếc tiền cho những người cung cấp thông tin bí mật. Nhưng điều này liên quan đến lịch sử chính trị của đất nước, chứ không phải tính cách của người dân. Trong khi đó, những tác giả tô vẽ nước Nhật thành màu đen lại khăng khăng rằng mọi người Nhật sinh ra đều là điệp viên, và không có thú vui nào cao cả hơn công việc thám tử tự nguyện. Chỉ cần nhớ lại rằng ở nước Ý hiền hòa, phe áo đen đã giết hại trẻ em, rằng ở thành phố của bốn cuộc cách mạng, những người theo dòng Carthusian đã diễu hành dưới tiếng hò hét của lính canh, rằng sách bị đốt ở đất nước của Gutenberg, là đủ để ngăn chặn mọi nỗ lực đổ lỗi cho tính cách dân tộc về những hành động tàn bạo của chế độ này hay chế độ khác.

I. Erenburg (Nga). Nhật Bản, Hy Lạp, Ấn Độ. 1960

Trên thế giới lan truyền bức ảnh về Nhật Bản như sau: đàn ông và phụ nữ mặc kimono cúi chào nhau một cách trịnh trọng dưới bóng của những ngôi chùa. Những geisha quyến rũ chơi nhạc cụ dây cổ xưa, đoi khi dừng lại chỉ để thể hiện sự dí dỏm tinh tế của mình. Những con người bé nhỏ rụt rè vội vã rời buổi trà đạo để đi cắm hoa, trong khi ở nền phía sau, những samurai bị xúc phạm đang tự mổ bụng…

Những khuôn mẫu rất dai dẳng, và có lý do cho điều đó. Rốt cuộc, các doanh nhân Mỹ đúng là lái xe limousine cũ kỹ, hút xì gà khổng lồ, thỉnh thoảng đấu súng với bọn xã hội đen, và biến mất vào sự bao la của miền Viễn Tây. Và chẳng phải vẫn còn nhiều những người Anh đội mũ của người môi giới chứng khoán và mang theo ô gấp, những người tự hào về “môi trên cứng rắn” của họ, tức là sự điềm tĩnh và đúng đắn của họ hay sao? Những người bước ra khỏi chiếc Rolls-Royce của mình để chơi cricket, hoặc lên kế hoạch khôi phục Đế chế, trong khi những người phụ nữ của họ, đội những chiếc mũ rộng vành được trang trí bằng những bông hoa sặc sỡ, sôi nổi tranh luận đòi khôi phục án tử hình bằng cách treo cổ, hay phản đối việc ngược đãi những chú chó Anh ở Nhật Bản?

Những bức tranh này có thể là biếm họa. Nhưng vấn đề với những bức biếm họa là chúng giống bản gốc hơn nhiều so với những gì chúng ta (nếu chúng ta là bản gốc) muốn thừa nhận. Hơn nữa, mọi người nói chung có xu hướng bị thu hút bởi những khuôn mẫu, về mọi thứ quen thuộc, đã được thiết lập và lâu dài. Đó là lý do tại sao chúng ta vô thức phản đối bất cứ điều gì khác biệt so với người Nhật khuôn mẫu. Chúng ta phủ nhận sự chuyển đổi của Nhật Bản thành một cường quốc công nghiệp hạng nhất. Nhân tiện, điều tương tự cũng đúng với người Nhật, những người vẫn còn gắn bó với bộ kimono của họ, những người vẫn cúi chào một cách lịch sự tinh tế trước khi ký kết một hợp đồng trị giá hàng triệu đô la để mua máy tính điện tử hoặc xây dựng một nhà máy tự động, và giống như ngày xưa, họ đến một nhà hàng có geisha để ký một hợp đồng như vậy.

George Mikes (Anh). Đất nước của đồng yên đang lên. 1970

Mỗi quốc gia, khi tích lũy kinh nghiệm lịch sử, sẽ quen với việc nhìn thế giới theo quan điểm riêng của mình. Theo nguyên tắc, con người không nhận ra rằng quan điểm như vậy tồn tại, nhưng họ không thể bỏ qua nó. Và nếu chúng ta hiểu được cách mọi người suy nghĩ, cách họ nhìn thế giới, kiểu tư duy của họ, hay, theo lời của V. G. Belinsky, “cách hiểu các thứ” của họ, thì chúng ta sẽ hiểu được quá khứ của dân tộc này và sẽ học được cách dự đoán tương lai.

T. Grigorieva (Nga). Truyền thống nghệ thuật Nhật Bản. 1979

Xem tiếp Phần 2: Giọt rơi từ ngọn giáo của thần Izanagi

Leave a ReplyCancel reply