Các khái niệm này được dùng như từ đồng nghĩa nhưng vẫn có sự khác biệt nào đó cần làm rõ.
Thực tại (thực tế) chính là hiện thực, các từ này tương đương hoàn toàn. Tiếng Anh là reality, tiếng Nga là realnost.
Phân biệt sự thật và chân lý thì phức tạp hơn. Tiếng Anh đều là truth, nếu dịch truth sang tiếng Trung ta có 真相 (chân tướng). Sự thật dịch sang tiếng Nga thường là pravda, và chân lý là istina. Tuy nhiên, theo wikipedia tiếng Nga, từ pravda có nghĩa hơi khác, dùng để chỉ chân lý tuyệt đối mang yếu tố tôn giáo. Trong tiếng Nga, hai khái niệm pravda và istina được phân biệt theo một câu trong Cựu ước:
истина возникнет из земли, и правда приникнет с небес;
Псалом 84:12
Câu này trong Cựu ước tiếng Anh và tiếng Việt lần lượt là:
Faithfulness springs forth from the earth, and righteousness looks down from heaven.
Sự chân thật nứt mộng từ dưới đất; Sự công bình từ trên trời ngó xuống.
Psalm 85:11, Thi thiên 85:11
Như vậy, pravda dịch sang tiếng Việt là sự công bình.
Chốt lại, ta có hai khái niệm sự thật và chân lý, hay reality và truth, hay realnost và istina. Vậy chúng khác gì nhau?
Sự khác nhau này chính là sự khác nhau giữa chữ thực (实) và chữ chân (真). Ngoài những lúc dùng thay thế nhau, ta dùng chữ thực (thực tại) để nói về những gì quan sát thấy, và chữ chân (chân lý) để nói về sự lý giải cho những gì mình thấy. Ví dụ một người đang bất hạnh là thực tại, còn lý do tại sao người đó bất hạnh là chân lý (hay sự thật). Mọi người có thể đồng ý về thực tế, nhưng bất đồng về chân lý. Nói cách khác, thực tế là các fact và chân lý là opinion lý giải mối quan hệ giữa các fact đó. Trong cuốn Truth and Reality, Otto Rank cũng quan niệm chân lý là ở trong mỗi người, còn thực tại là ở bên ngoài.
Trong một nền văn hóa dân tộc hay văn hóa của một tổ chức, có nhiều cách để xác định chân lý. Ví dụ chân lý được xác định như tín điều truyền đời, do lãnh tụ tuyên bố, do thực tại chứng minh, hay thông qua tranh luận. Ngầm định văn hóa về cách xác định chân lý có ảnh hưởng lớn đến cơ chế ra quyết định của một tổ chức.
Ví dụ, tại một công ty, lãnh đạo quyết định chân lý: “công cụ BSC là công cụ quản lý chiến lược hiệu quả” và yêu cầu các đơn vị sử dụng, bất chấp việc thực tại sử dụng ở các đơn vị không khẳng định chân lý đó. Khi đó, hoặc lãnh đạo kết luận là đơn vị đang không biết cách làm, hoặc sẽ thay đổi sang chân lý khác, không dùng BSC nữa.
Các phân tích trong bài này dùng để hiểu khái niệm Sự thật và Chân lý (reality and truth) được sử dụng trong môn học UFC, từ lý thuyết về Văn hóa của Tổ chức của Edgar Schein.
Bổ sung:
Không có một nửa sự thật, chỉ có một phần thực tại
Thực tại (reality) là các dữ kiện, là fact. Sự thật (truth, chân lý) là phán định của ta về thực tại đó. Phán định này phụ thuộc vào bức tranh thế giới mà ta có trong đầu, cộng với độ rộng của thực tại mà ta chấp nhận.
Ví dụ, có thực tại là Israel bắn phá Gaza. Mở rộng ra, và liên quan đến nó, là thực tại quân Hamas đã tấn công và giết hại dân thường Israel trước đó. Rồi ai đó có thể mở rộng ra đến 10, 100, 500 hay hàng nghìn năm trước đó, để có chân lý của mình.
Do đó, cần thống nhất về 1 điểm khởi đầu và không tính những gì xảy ra trước đó. Nếu không có giới hạn về thời gian, thì mọi thứ liên quan đến con người, thậm chí cả vũ trụ, đều trở nên vô nghĩa.
Và ai cũng có thể bảo là đối phương chỉ có 1 nửa sự thật.
Pingback: [PHẦN MỘT] TRACK 1: YUN – RM (WITH ERYKAH BADU) – jilsil's archive
Hi anh Đạt,
Em đang tìm các bài viết về sự khác biệt của “thực tiễn” và “thực tế” thì tình cờ lại thấy bài viết này của anh trên trang kết quả tìm kiếm và đã vào đọc.
Khi em đọc đoạn anh dịch bên dưới em thấy có hai chỗ hơi chưa được thỏa đáng/thỏa mãn khi đọc, đó là: Dịch Faithfulness thành Sự chân thật và Righteousness thành Sự công bình.
Có điều này em muốn nói rõ là: Em viết những dòng này bằng trực giác ngay khi đọc của mình, vừa đọc vừa viết, chưa nghiền ngẫm kỹ nên rất có thể sau này sẽ thay đổi góc nhìn -thành ra đây là góc nhìn và suy nghĩ hiện tại; một điều nhỏ thôi nhưng em cũng muốn ghi cho rõ (cho em).
Faithfulness springs forth from the earth, and righteousness looks down from heaven.
Sự chân thật nứt mộng từ dưới đất; Sự công bình từ trên trời ngó xuống.
Theo em, Sự chân thật là “Truth” như trong Truth, Goodness, Beauty – Chân Thiện Mỹ, và Righteousness là “Lẽ phả/đúng đắn” như trong “leaders do the right things” – người leaders làm những điều đúng đắn, làm những cái phải làm.
Từ Faithfulness theo em là “Niềm tin ở bên trong một người” như chữ niềm tin trong tên bài hát “Niềm tin và hy vọng”, cái “Niềm tin ở bên trong” này nó có sự liên hệ với “Belief(s)” Những cái mà một người tin hay nhiều người cùng tin.
Vậy Faithfulness là cái niềm tin ở trong mình -bất kể đó là gì.
Còn Belief là tên gọi của cái niềm tin cụ thể ở bên trong ấy là gì. Ví dụ: Nếu Niềm tin ở bên trong (faithfulness) của N1 là N1F, thì cái Belief (niềm tin) đang nói đến ở đây là N1F.
Truth (chân, trong Chân Thiện Mỹ) thì em nghĩ nó đúng như từ theo nghĩa sâu nhất của từ “chân tướng” -Bản chất thật sự của sự vật hiện tượng hay điều gì đó, cái có thể nằm ở ngoài khả năng chạm đến nó của ta.
…
Khi đọc đoạn này:
“Mọi người có thể đồng ý về thực tế, nhưng bất đồng về chân lý. Nói cách khác, thực tế là các fact và chân lý là opinion lý giải mối quan hệ giữa các fact đó. Trong cuốn Truth and Reality, Otto Rank cũng quan niệm chân lý là ở trong mỗi người, còn thực tại là ở bên ngoài.”
ngay lập tức em nảy ra suy nghĩ trong đầu: Truth là cái ở bên ngoài. Còn cái ở bên trong là Faithfulness.
Em vừa nhìn ra vườn và nhìn vào cây mít, em thấy ở đó những cái lá màu xanh: cái em thấy là những cái lá màu xanh và em tin (dựa trên sự hiểu biết óc suy nghĩ, óc phán đoán, và mọi điều khác mà em biết v.v…) rằng cái em thấy là cái lá mít màu xanh. Cái tin này là Faithfulness.
Nhưng cái mà em thấy ấy (gọi là lá mít màu xanh ấy): Nó có thực là màu xanh không? Nhỡ đâu nó không phải màu xanh thì sao? Rất nhiều trường hợp người ta bị lầm lẫn về màu sắc.
Truth là cái màu thực của lá mít -bất kể đó là gì; bất kể chúng ta có biết được nó hay không (thường là không).
Fact thì đơn giản hơn rồi. Đó là những điều được chấp nhận rộng rãi rằng là đúng. VD: 1+1=2. Nhưng mà cũng phải lưu ý rằng có lúc “fact” cũng bị làm cho sai, bị chứng minh là sai, là không đúng. Fact có lẽ là “state of the art” của sự hiểu biết của con người (chủ yếu là các nhà khoa học). Sự hiểu biết ấy không phải là cây gỗ khô mà nó là một cái cây còn sống. Thành ra nó có thể thay đổi theo năm tháng, theo sự phát triển về kiến thức và sự hiểu biết của con người.
Xưa kia người châu Âu tin rằng trái đất phẳng, với những người thời đó: Đó là sự thật (fact).
Ngày nay, chúng ta tin rằng trái đất tròn (sự thật mới -new fact)… Có thể một trăm năm hoặc một nghìn năm sau thế hệ tương lai lại thấy rằng trái đất thực ra là méo, chứ không phải tròn.
–d.k.
Thật ra phạm vi bài viết của tôi chỉ là để phân biệt giữa reality và truth, vì trong tiếng Nga họ có 2 từ để chỉ truth là istina và pravda, nên tôi mới tìm cách phân biệt 1 chút thông qua Kinh thánh. Khái niệm Faithfulness (mà tiếng Việt là Sự chân thật) ko được tiếp tục phân tích ở đoạn sau cùa bài. Về mối tương quan giữa reality và truth thì có 1 đoạn trong cuốn Nexus của Harari giải thích và tôi thấy tương đồng với cách hiểu của mình.
Mấy năm trước em có đọc ba cuốn của Harari (Sapens, Homo Deus, và 21 Lessons) nhưng không biết thế nào mà lại chưa biết đến, chưa đọc cuốn Nexus.
Em rất mong được đọc những bài viết như thế này, về chủ đề này bằng tiếng Việt của người Việt viết, nhưng hiện tại rất khó tìm, khó kiếm, lâu lâu mới thấy một vài bài.
Em hy vọng sẽ được đọc thêm nhiều bài viết như thế này trên blog của anh.
Dưới đây là ghi chú của em về một đoạn trong cuốn 21 Lessons của Harari mà em thấy rất ấn tượng.
—
Muốn tiến xa phải có thừa thời gian
Tác giả cuốn “21 bài học cho thế kỷ 21”, Yuval Noah Harari, viết rằng: “Nếu bạn muốn tiến thật xa vào bất kỳ chủ đề nào, bạn cần rất nhiều thời gian, và cụ thể là cái quyền được lãng phí thời gian. Bạn cần phải thử nghiệm những lối đi không hiệu quả, lao vào những ngõ cụt, để ra một khoảng cho những nghi ngờ và sự nhàm chán, và cho phép những hạt mầm nhỏ bé của sự hiểu biết được lớn lên từ từ và ra hoa kết trái. Nếu bạn không có đủ điều kiện để lãng phí thời gian – bạn sẽ chẳng bao giờ tìm được chân lý.”
Yet if you want to go deeply into any subject, you need a lot of time, and in particular you need the privilege of wasting time. You need to experiment with unproductive paths, to explore dead ends, to make space for doubts and boredom, and to allow little seeds of insight to slowly grow and blossom. If you cannot afford to waste time – you will never find the truth.
P.S. Em rất trân trọng những trao đổi (dù ngắn thôi) như thế này. Cảm ơn anh nhiều.
–d.k.
Đúng là bây giờ mxh khiến mọi người trao đổi quá ngắn và ko đủ sâu, thành thử nội dung nhiều nhưng hời hợt và lặp lại. Cuốn Nexus mới ra đầu năm nay, và có chủ để về thông tin, nên đề cập đến reality và truth.
Rất vui đc trao đổi với bạn, cùng hiếm lắm mới có comment thế này.
Dạ vâng.
Cảm ơn chia sẻ của anh.
Em sẽ sớm tìm đọc cuốn đó.
–d.k.