Cây anh đào và cây sồi (phần 4)

Thợ gốm và đầu bếp

Từ sáng, tôi lang thang dọc những con phố quanh co của Kyoto, xuống dốc từ đền Kyomizu. Nơi đây có rất nhiều lò và cửa hàng bán đồ gốm sứ. Đây chính là nơi ra đời của loại đồ sứ nổi tiếng mang tên “gốm sứ Kyomizu”.

Tôi đi lang thang, hít hà mùi hương quen thuộc gợi lại ký ức về chiếc bếp lò Nga mới thắp. Đó là mùi khói của gỗ thông hòa lẫn với mùi đất sét cháy. Mùi hương này không chỉ gợi nhớ đến ngôi làng ở Nga. Thành phố Cảnh Đức của Trung Quốc, nơi khai sinh ra đồ sứ, ngay lập tức hiện ra trước mắt tôi. Các ống khói cắt chéo lên phía trên, trên nền những ngọn núi xanh. Bờ sông được bao phủ dày đặc bởi những chiếc thuyền buồm chở cao lanh, nguyên liệu thô để làm đồ sứ. Những người cửu vạn dùng quai gánh bằng tre gánh những viên gạch trắng này lên lò nung và lò gốm. Và những người khác đẩy xe cút kít về phía họ, chở đầy những bó bát đĩa đã nung xong được bọc trong rơm rạ.

Liệu có thể tiếp cận nơi khai sinh ra đồ sứ mà không thấy chọn rộn, khi mà cách đây cả ngàn năm người ta đã nói:

Trắng như ngọc,
Mỏng như giấy.
Sáng như gương,
Kêu như bạt.

Vào đầu thế kỷ thứ 7, thương gia người Trung Quốc Đào Vũ đã trở nên giàu sụ. Ông ta bán một loại gốm mới, chưa từng được biết đến trước đây, và tuyên bố rằng nó là bạch ngọc. Đồ sứ trắng, sáng bóng, hơi trong suốt thực sự trông giống loại đá quý rất được ưu chuộng ở phương Đông này. Cũng thời gian đó, tức là thời nhà Đường, đồ sứ đã thâm nhập vào Nhật Bản, sau đó vào Ấn Độ, Iran, các nước Ả Rập rồi từ đó vào châu Âu.

Lần đầu tiên tôi đến thăm Cảnh Đức là vào giữa những năm 1950. Thành phố trông giống như một tổ ong. Nó bao gồm các khoang sân khép kín. Mỗi sân như vậy thực sự là một tế bào của ngành sản xuất đồ sứ. Tất cả các lò gốm đều giống hệt nhau: một hình chữ nhật có mái lợp ngói, ở giữa là những dãy bồn chứa cao lanh. Tia nắng mặt trời bị vỡ ra trong chúng như thể bị phân tán trong hàng chục tấm gương tròn. Một người đàn ông đeo tạp dề cẩn thận đổ thứ nước gần như trong suốt, hơi trắng từ bồn này sang bồn khác bằng một chiếc muôi phẳng. Sau một vài ngày, lớp nhẹ nhất được múc vào bồn thứ ba. Đó là cách đạt được cấu trúc mỏng nhất của nguyên liệu. Những người thợ gốm làm việc dưới tán cây. Mỗi người ngồi trên một tấm gỗ tròn lớn với hai chân dang rộng và hai tay đặt giữa đầu gối. Anh ta hoặc quay bánh đà nặng của tấm gỗ tròn bằng gậy, hoặc cúi xuống một khối sứ, dùng các ngón tay nặn nó thành một cái đĩa hoặc một chiếc bình.

Các món đồ được chuyển từ thợ gốm sang người mài gốm. Chỉ được trang bị những chiếc đục thô sơ, họ đẽo chiếc bát đất sét ẩm mỏng manh thành một chiếc bát có độ dày của vỏ trứng. Mài xong, các mòn đồ được nhúng vào men giống như sữa và đem đi sấy khô. Đến giữa trưa, những mái nhà màu xám của Cảnh Đức chuyển sang màu trắng. Những tấm ván để đồ sứ chuẩn bị nung đôi khi còn được đặt giữa các mái nhà cạnh nhau, biến những con hẻm thành hành lang. Trên chính những tấm ván này, các sản phẩm sẽ được đưa vào lò.

Cuối cùng là nung – một quá trình bí ẩn mà qua đó đất sét sẽ có được các đặc tính của bạch ngọc. Nghệ thuật của người thợ cả nung ở Cảnh Đức từ lâu đã được coi là nghề phù thủy. Điều này được thể hiện ngay từ việc nạp nhiên liệu vào lò, từ việc biết cách “mở đường cho gió và lửa”. Cần phải tính toán đặc tính của từng loại sứ, chất lượng củi, thời tiết và thậm chí cả hướng gió. Tuy nhiên, ngoài kiến ​​thức và kinh nghiệm thì trực giác, mạo hiểm và đôi khi cả may mắn cũng đóng vai trò quan trọng. Không phải ngẫu nhiên mà các thợ nung có câu tục ngữ: “Nạp lò như dệt hoa, đốt lò như cướp nhà”.

Ngày đó, tôi đã chụp rất nhiều ảnh các nghệ nhân của một trong những thể loại hội họa đầu tiên – sứ thanh hoa. Khác với những loại khác, nó chỉ có một màu, và vẽ trước khi đồ được tráng men và nung. Cọ vẽ của bậc thầy thanh hoa, một bức tranh dưới men với màu coban, phải di chuyển với tốc độ được xác định nghiêm ngặt. Sứ chưa nung rất hút ẩm. Khi vẽ, nghệ nhân thấy đều màu. Nhưng ở những chỗ mà anh ta chậm lại chỉ một giây, sau khi nung sẽ xuất hiện một đốm xanh đậm. Tuy nhiên, chính đặc tính này của sứ ẩm đã mở ra những khả năng mới cho bậc thầy hội họa – bằng cách tăng tốc hoặc làm chậm chuyển động của cọ vẽ mà họ, chỉ cần sử dụng một màu, có thể tạo ra một họa tiết với toàn bộ các tông màu xanh, từ nhạt đến đậm. Chỉ có người viết thư pháp giỏi mới có thể thành thạo nghệ thuật vẽ tranh dưới men bằng coban.

…Khi đi dạo dọc theo con phố Nhật Bản trước Đền Kyomizu, mỗi bước chân đều khiến tôi nhớ đến những bậc thầy làm đồ sứ Trung Quốc. Không thể không so sánh hai nhánh nghệ thuật phương Đông này. Hơn nữa, dù muốn hay không, chúng ta thường phải đối lập chúng với nhau thay vì song lập.

Đôi khi người ta có thể nghĩ rằng đồ sứ không ra đời ở Trung Quốc mà ở Nhật Bản, rằng sau khi tiếp thu chủ nghĩa nguyên thủy thô sơ của đồ gốm Kyomizu, người Trung Quốc đã phát triển nghệ thuật này đến mức hoàn hảo kinh điển. Bằng cách tạo ra đồ sứ – trắng như ngọc, mỏng như giấy, sáng như gương, kêu như bạt – những người thợ gốm Trung Quốc đã có thể đạt được từ đất sét những tính chất vốn xa lạ với nó. Người ta không khỏi kinh ngạc trước sự hoàn hảo về hình thức mà các bậc thầy Cảnh Đức đạt được khi chế tác những đồ sứ chưa nung. Trước khi nung, người ta kiểm tra chất lượng bằng một giọt nước: nếu sau khi chảy xuống theo lòng bình, nước thấm ra ngoài thành một dải sẫm đều thì tức là quá trình xoay đã được thực hiện hoàn hảo. Các bậc thầy Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ sự sai lệch nào so với hình dáng chuẩn lý tưởng. Họ coi sự biến dạng nhỏ nhất trong quá trình nung là khiếm khuyết, nói rằng trong trường hợp này, chiếc bình “đánh mất bóng”. Giống như những tác phẩm chạm khắc bằng ngà voi tạo cảm giác như ren tinh xảo, hay những tác phẩm thêu lụa giống như tranh vẽ, các tác phẩm của các bậc thầy Cảnh Đức khẳng định ý niệm về quyền năng vô biên của nghệ sĩ đối với vật liệu.

Trong bối cảnh này, đồ gốm Nhật Bản ban đầu có vẻ thô sơ và cổ xưa khi so sánh với chủ nghĩa cổ điển rực rỡ. Chỉ khi thấm nhuần quan niệm về cái đẹp của người Nhật, người ta mới có thể thực sự đánh giá nó. Làm sao có thể giải thích được những đặc điểm của đồ gốm Nhật Bản như sự phủ nhận tính đối xứng và tính chính xác hình học của hình khối, sự ưa chuộng màu men không xác định, và coi thường mọi họa tiết trang trí?

Tôi đã nói chuyện về điều này ở một cửa hàng gốm Kyomizu với một nghệ nhân tên là Morino.

– Theo tôi, – Morino nói, – bản chất ở đây là thái độ đối với thiên nhiên. Người Nhật chúng tôi cố gắng sống hòa hợp với thiên nhiên, ngay cả khi thiên nhiên khắc nghiệt với chúng tôi. Tuyết không thường xuyên rơi ở Nhật Bản, khi có tuyết thì trong nhà lạnh không chịu nổi, vì đó không phải là nhà, mà là lầu. Tuy nhiên, tuyết đầu mùa là ngày lễ đối với người Nhật. Chúng tôi mở cửa sổ giấy và ngồi bên những chiếc lò sưởi than củi nhỏ, nhâm nhi rượu sake và ngắm nhìn những bông tuyết rơi trên những bụi cây trong vườn, trên cành tre và cây thông.

Vai trò của nghệ sĩ không phải là áp đặt ý tưởng của mình lên chất liệu, mà là giúp chất liệu nói lên và thể hiện cảm xúc của mình bằng ngôn ngữ của cái chất liệu đã được đánh thức này. Khi người Nhật nói rằng thợ gốm học đất sét, thợ chạm khắc học gỗ và thợ rèn học kim loại, thì đó chính là ý họ muốn nói. Ngay từ khâu lựa chọn chất liệu, người nghệ sĩ đã tìm kiếm chính xác thứ có thể đáp ứng được ý tưởng của mình.

– Nếu vật liệu quay lưng lại với tôi, tôi sẽ bỏ qua, – Morino kết luận. – Chỉ khi nào chúng tôi hiểu nhau thì tôi mới bắt tay vào làm.

Trong khi người Trung Quốc thể hiện kỹ năng của mình thì sản phẩm của thợ thủ công Nhật Bản lại quyến rũ vì sự tự nhiên của chúng. Hơn nữa, không phải ngẫu nhiên mà những truyền thống cổ xưa này lại hòa nhập với trào lưu hiện đại. Trong thế giới văn minh cơ khí, trong thế giới bê tông và thép, con người ngày càng cảm thấy khao khát thiên nhiên. Do đó, thứ nghệ thuật khẳng định sự gần gũi với thiên nhiên thông qua cách tiếp cận vật liệu, nghệ thuật thi vị hóa thay vì phủ nhận những khiếm khuyết của vật liệu hay của lao động, sẽ trở nên rất phù hợp với sự hiện đại thời nay.

“Đừng sáng tạo, mà hãy tìm và mở ra” – phương châm chung này của nghệ thuật Nhật Bản được tiếp nối bằng một lĩnh vực hoàn chỉnh là nấu ăn. Khi so sánh ẩm thực Nhật Bản với ẩm thực Trung Hoa, sự khác biệt cơ bản trong nguyên tắc thẩm mỹ của hai dân tộc trở nên đặc biệt rõ ràng.

Nếu ẩm thực Trung Hoa là thuật giả kim, khả năng kỳ diệu tạo ra điều chưa biết từ những thứ vô hình, thì ẩm thực Nhật Bản là nghệ thuật tạo ra những bức tranh tĩnh vật trên đĩa. Ẩm thực Trung Hoa, thậm chí còn hơn cả ẩm thực Pháp, khẳng định quyền năng tối cao của con người đối với nguyên liệu. Đối với một đầu bếp giỏi, như câu tục ngữ đã nói, mọi thứ đều dùng được trừ mặt trăng và bóng của nó trong nước. Có rất nhiều loại sản phẩm được sử dụng theo những cách kết hợp không thể tưởng tượng và bất ngờ nhất. Món ăn Quảng Đông “long hổ đấu” độc đáo không chỉ vì được chế biến từ thịt mèo và thịt rắn mà còn vì sự kết hợp gia vị phức tạp.

Một đầu bếp Trung Quốc tự hào về khả năng nấu cá của mình đến mức không thể phân biệt được với thịt gà. Anh ta tự hào vì có thể nấu cho bạn nhiều món ăn khác nhau mà bạn không thể biết chính xác từng món được làm từ thành phần gì.

Ẩm thực Nhật Bản thì, trái ngược với ẩm thực Trung Quốc, cực kỳ đơn giản, và đầu bếp ở đây có mục tiêu hoàn toàn khác. Anh cố gắng đảm bảo rằng hình thức và hương vị của món ăn vẫn giữ được đặc tính ban đầu của thực phẩm càng nhiều càng tốt, để cá hoặc rau vẫn là chúng ngay cả khi được nấu chín. (Các món ăn như sukiyaki và tempura, thường được phục vụ cho khách du lịch, không phải là đặc trưng của ẩm thực Nhật Bản. Món trước được vay mượn từ người Mông Cổ, món sau từ người Bồ Đào Nha.) Đầu bếp Nhật thể hiện kỹ năng của mình bằng cách làm nó không lộ ra, giống như một người làm vườn tạo cho cây hình dạng mà có lẽ bản thân cái cây cũng muốn. Ví dụ, việc làm gỏi cá thường chỉ giới hạn ở khả năng khéo léo thái cá thành từng miếng. Có lần tôi gặp một người trong quán ăn, anh ta đã dành rất nhiều thời gian để cố gắng giải thích nghề nghiệp của mình cho tôi bằng các ký hiệu. “Tôi là đầu bếp, đầu bếp”, – anh ta vừa nói vừa gõ mép lòng bàn tay xuống bàn như thể đang cắt gì đó bằng dao. Điều thú vị là đầu bếp này gắn cử chỉ đó với nghề nghiệp của mình. Đầu bếp Nhật Bản là người thái cá hoặc rau. Con dao là công cụ chính của anh ta, giống như cái đục của nhà điêu khắc.

Tôi sẽ không bao giờ quên quán trọ ở làng, nơi tôi được phục vụ một cốc súp vào buổi sáng, với những lát cà rốt được cắt như lá phong. Đó là lời nhắc nhở về mùa thu vàng, bởi vì tất cả những gì bạn phải làm là ngẩng đầu lên và nhìn ra cửa sổ để thấy những ngọn núi phủ đầy cây phong đỏ thẫm.

Giống như một nhà thơ Nhật Bản phải diễn tả mùa trong thơ haiku, thể loại thơ chỉ gồm một ý thơ duy nhất, một đầu bếp Nhật Bản cũng cố gắng nhấn mạnh tính mùa của thực phẩm.

Trong ẩm thực Nhật Bản, tính tương thích theo mùa, cũng như độ tươi của sản phẩm, được đánh giá cao hơn so với bản thân cách chế biến. Món ăn ưa thích trên bàn tiệc của người Nhật là cá sống, đặc biệt là loại cá ngon nhất vào thời điểm này của năm, hoặc ngon nhất ở vùng đó. Mỗi món ăn đều nổi tiếng với hương vị tự nhiên của thực phẩm, và phải được dùng vào thời điểm thích hợp nhất đối với thực phẩm đó.

Trong ẩm thực Nhật Bản không có bất kỳ loại nước sốt hoặc gia vị nào mà có thể làm mất đi hương vị vốn có của thực phẩm. Wasabi, hay cải ngựa Nhật Bản, trộn với nước tương và ăn kèm với cá sống, có tác dụng như một loại gia vị. Nó không làm mất đi hương vị vốn có của cá mà làm nổi bật. Một ví dụ về sự kết hợp như vậy là món sushi, một miếng cơm được phủ lát cá sống, xếp lớp với wasabi. Ở đây, hương vị của cá sống được cân bằng bởi vị nhạt của cơm và vị cay của wasabi.

Mì chính Aji-no-moto là loại gia vị phổ biến trong các món ăn Nhật Bản. Từ này theo nghĩa đen có nghĩa là “gốc rễ của hương vị”. Mục đích của aji-no-moto là tăng cường hương vị đặc trưng vốn có của thực phẩm. Ví dụ, nếu bạn cho một nhúm bột trắng này vào nước dùng gà, nước dùng sẽ có vẻ đậm đà hơn, tức là “giống gà” hơn. Tương tự như vậy, cà rốt sẽ “giống cà rốt” hơn, còn củ cải ngâm sẽ trở nên cay nồng hơn. Có thể nói rằng aji-no-moto tượng trưng cho nghệ thuật Nhật Bản nói chung. Suy cho cùng, mục tiêu của nó là đưa đá, gỗ, giấy đến trạng thái mà vật liệu có thể bộc lộ trọn vẹn vẻ đẹp nguyên thủy của nó. Dù các tác phẩm nghệ thuật đương đại có vẻ hiện đại đến đâu thì cách tiếp cận chất liệu của nghệ sĩ Nhật Bản vẫn không thay đổi.

Chủ nghĩa hiện đại trong nghệ thuật Nhật Bản có thể được so sánh với khu vườn cổ điển của Nhật Bản. Đằng sau vẻ giản dị, mộc mạc là rất nhiều công sức và truyền thống. Chẳng hạn, kiến ​​trúc hiện đại của Nhật Bản chính là như thế. Nó mang đậm tính dân tộc không phải vì áp dụng một số họa tiết trang trí hay tỷ lệ từ quá khứ, mà bằng sự trung thành với đặc điểm chính của nghệ thuật Nhật Bản – cách tiếp cận chất liệu.

Bất kể Kenzo Tange có bị gọi là kẻ phá hoại nền tảng bao nhiêu đi nữa, thì ông vẫn là một người thừa kế trung thành. Tange đã nâng tầm kiến ​​trúc Nhật Bản hiện đại bằng cách tiên phong trong việc tiếp cận bê tông theo cùng cách mà những người thợ xây Nhật Bản cổ đại tiếp cận gỗ, nhấn mạnh vẻ đẹp của từng đường vân, từng nút thắt. Bằng cách bỏ qua lớp ốp mặt tiền, kiến ​​trúc sư đã tìm thấy vẻ đẹp trong bê tông thô cùng dấu vết của ván khuôn.

Người Nhật đã thành công trong việc mang vào các hình thức nghệ thuật Trung Quốc bản sắc dân tộc của mình, và không phải lỗi của họ nếu du khách nước ngoài ngưỡng mộ những di tích ít thể hiện thiên tài của người Nhật nhất. Hàng chục cuốn sách tiếng Anh và tiếng Pháp mô tả ngôi chùa kiêm lăng mộ của các tướng quân Tokugawa ở Nikko là một kiệt tác của kiến ​​trúc Nhật Bản. Ngôi đền này được xây dựng vào thế kỷ 17, đồ sộ, nhiều màu sắc và thậm chí có phần lòe loẹt. Nhưng sức mạnh của nghệ thuật Nhật Bản nằm ở sự giản đơn phi thường, sự trần trụi, sự bỏ qua những chi tiết không cần thiết, ở sự hiểu biết về chất liệu được trình bày một cách không ngụy trang, và nhiều hơn nữa – ở cách tiếp cận trữ tình và đầy phấn khích đối với chất liệu. Có nhiều chi tiết phức tạp có thể được tìm thấy ở Nikko, nhưng sự phức tạp không nhất thiết là nghệ thuật: có thể nói, đó chính là kiến ​​trúc Baroque của Nhật Bản. Chỉ cần so sánh lăng mộ ở Nikko với chùa Horyuji, với các cung điện sau này ở Kyoto, là đủ để hiểu sự hào nhoáng, lộng lẫy và phô trương bên ngoài là xa lạ với tinh thần Nhật Bản đến mức nào.

I. Erenburg (Nga). Nhật Bản, Hy Lạp, Ấn Độ. 1960

Gu thẩm mỹ của người Nhật trong hội họa, trang trí nhà cửa, trong mọi thứ liên quan đến đường nét và hình khối, có thể được mô tả bằng một từ – “tiết chế”. Sự khoe khoang cố gắng biến to lớn thành vĩ đại, sự thô tục kìm nén cái đẹp bằng rực rỡ và thất thường – tất cả những điều này đều xa lạ với tinh thần Nhật Bản.

Nghệ thuật Nhật Bản nổi bật bởi sự chính xác, nhẹ nhàng và sức mạnh của đường nét, cũng như nét chữ đậm đặc biệt, có lẽ là do người Nhật Bản viết và vẽ bằng cả cánh tay chứ không chỉ bàn tay. Có thể nói, phẩm giá thư pháp này mang lại nét quyến rũ cho những bức vẽ thô sơ, đơn giản của Nhật Bản.

B. Chamberlain (Anh). Toàn bộ Nhật Bản. 1894

Về mặt thị hiếu, người Nhật rất giản dị và coi trọng sự tự nhiên hơn hết thảy, điều này thể hiện qua lối sống của họ. Người Nhật thích sống trong những ngôi nhà được xây dựng bằng gỗ thô mộc, trong khi người Trung Quốc không bao giờ để một mảnh gỗ nào không được sơn và thích đồ ăn phong phú, đa dạng. Người Nhật cũng thích ẩm thực Trung Hoa, nhưng chỉ vì sự đa dạng. Bạn khó có thể tìm được một gia đình nào có thu nhập cao mà ăn những món do một đầu bếp Trung Quốc chế biến hàng ngày. Trong hội họa, người Trung Quốc thích mọi thứ uy nghiêm và được phác họa rõ ràng, điều này có vẻ thô tục và vô vị đối với người Nhật. Người Trung Quốc thích hoa mẫu đơn, hoa hồng, hoa lan – tất cả đều là những loài hoa có mùi thơm nồng và rõ nét, theo nhiều cách là trùng hợp với sở thích của phương Tây. Người Nhật thì lại yêu thích các loài hoa như hoa anh đào, một loài hoa không được đánh giá cao ở Trung Quốc, cũng như nhiều loài hoa dại và thậm chí cả các loại thảo mộc không tên. Khi nói đến việc thưởng thức nghệ thuật hoặc thiên nhiên, người Nhật là những người bảo thủ cố hữu, chỉ trung thành với các tiêu chuẩn cũ. Họ thích những tảng đá rêu, cây lùn, cây cong queo, vì mọi thứ đều ẩn chứa một sức hấp dẫn đặc biệt đối với họ.

Iwao Matsuhara (Nhật Bản). Cuộc sống và thiên nhiên ở Nhật Bản. 1964

Xem tiếp phần 5: Bốn thước đo của cái đẹp.

1 thought on “Cây anh đào và cây sồi (phần 4)

  1. Pingback: Cây anh đào và cây sồi (phần 3) - Phan Phuong Dat

Leave a ReplyCancel reply