Rất mừng là sách của Martin Seligman bắt đầu được dịch và xuất bản tiếng Việt, và ồ ạt ra luôn 3 quyển. Một nỗ lực đáng trân trọng của Công ty CP Xuất bản Times.

Seligman nổi tiếng với việc tìm ra hiện tượng Bất lực tập nhiễm (Learned Helplessness, còn dịch là Bất lực do học được). Nôm na là động vật và con người nếu từ bé đã liên tục thất bại trong một việc gì đó thì sẽ ‘học được’ sự bất lực đó và chấp nhận thúc thủ ngay cả khi những rào cản quá khứ đã mất tác dụng. Ví dụ nổi tiếng nhất có lẽ là chú gấu Ina ở Rumani, sau khi được giải phóng 7 năm trời vẫn giữ thói quen đi vòng tròn trong một cái lồng vô hình (link).
Dựa trên một số nghiên cứu bao gồm lý thuyết trị liệu nhận thức – hành vi (CBT) của Ellis và Beck, Seligman đi đến kết luận là tâm trạng của ta do cách suy nghĩ của ta quyết định, và bên cạnh Helplessness thì Optimism cũng có thể học được, và quá trình ‘học cách lạc quan’ này có thể giúp người ta thoát khỏi trầm cảm, hạnh phúc và thành công hơn.
Theo Seligman, khi gặp một sự việc bất kể tiêu cực hay tích cực, thì con người ta có thể đi theo 2 cách giải thích (explanatory style) khác nhau, là bi quan hay lạc quan. Ví dụ bạn thi trượt và cho rằng đen thôi đỏ quên đi (lạc quan) hay là cho rằng mình chẳng ra gì, làm gì cũng hỏng (bi quan).
Có thể phân tích cách giải thích theo 3 chiều. Thứ nhất là tính Thường xuyên (Permanence): bạn có thể cho rằng sự việc luôn xảy ra với mình như vậy (always) hay chỉ thi thoảng (sometimes). Thứ hai là tính Bao trùm (Pervasiveness): vận hên/xui đeo bám theo mình khắp nơi (global) hay chỉ là vụ việc cụ thể (specific). Thứ ba là tính Quy kết (Personalization): bạn có xu hướng giải thích sự việc xảy ra là do bản thân hay do môi trường.
Ví dụ, một người trầm cảm mà gặp việc xấu thì hay nghĩ rằng cái xấu thường xuyên xảy ra với mình, xảy ra khắp nơi, và lỗi do mình chẳng ra gì. Đây chính là cách giải thích vô cùng bi quan. Về lý thuyết (thực tế thì rất khó khăn và mất công), nếu giúp họ thay đổi cách giải thích này thì sẽ hết trầm cảm. Trong Phần 3, tác giả có một số hướng dẫn về thực hành lạc quan, nhưng không nhiều. Các hướng dẫn chi tiết hơn được tác giả đề cập trong cuốn sách tiếp theo, có tên là The Optimistic Child – hy vọng cũng sẽ sớm được xuất bản tiếng Việt.
Một số lưu ý về bản dịch:
- Ko hiểu sao dịch giả dịch ‘explanatory style’ thành ‘kiểu phơi bày’, nghe hơi rối rắm và theo tôi là ko chính xác lắm vì ‘phơi bày’ là phải cho ai đó khác, trong khi giải thích chủ yếu cho chính mình.
- Cũng ko hiểu sao dịch giả cố dịch “learned helplessness” thành “học cách bất lực” thay vì “bất lực tập nhiễm / do học được”. Tuy nhiên vì cách dịch đó ko ổn nên nhiều chỗ vẫn phải dùng phương án sau. Chưa kể có thể gây lẫn vì bị trùng khi dịch cụm từ “learning to be helpless”.
- Về ba tính chất của cách giải thích, dịch giả dùng các từ “lâu dài”, “phổ biến” và “cá nhân hóa” – khác với các phương án tôi dùng ở trên.
- Từ rumination nên dịch là ‘nhai lại’ hơn là ‘trầm ngâm’, vì thể hiện đúng hành vi của người bi quan là cứ nhai lại mãi một câu chuyện buồn.
- Ngoài ra có một số chỗ dịch sai ý, tuy không quan trọng lắm. Nếu độc giả đọc thấy chỗ nào có vẻ tối nghĩa thì nên đối chiếu nguyên tác.
Hai cuốn nữa được xuất bản đợt này là Hạnh phúc đích thực (Authentic Happiness) và Thăng hoa (Flourish). Đó là hai cuốn sách kinh điển về Tâm lý học tích cực mà Seligman là một trong những người sáng lập và có ảnh hưởng lớn. Cuốn đầu ra mắt 2004 và cuốn sau 2012, đúc kết lại toàn bộ lý thuyết của tác giả.
Cả 3 cuốn đều là loại sách nên mua để có thể đọc nhiều lần, mỗi khi có nhu cầu cuộc sống.