Cây anh đào và cây sồi (phần 6)

Dạy cảm thụ cái đẹp

Hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều coi các nghi lễ tập thể – tức là việc cùng nhau đưa mọi người vào một tín điều – là phương tiện quan trọng nhất để tác động đến tâm hồn con người. Và vì vị trí của tôn giáo ở Nhật Bản phần lớn được dành cho việc sùng bái cái đẹp, nên vai trò của các nghi lễ tập thể này được thể hiện qua các truyền thống và nghi lễ được thiết kế để giúp mọi người cùng nhau phát triển gu thẩm mỹ nghệ thuật. Lối sống của người Nhật đã tạo nên cả một hệ thống các bài tập thẩm mỹ tập thể như vậy, mà người dân thường xuyên tham gia.

Khả năng cảm thụ và thưởng thức cái đẹp không phải là một phẩm chất bẩm sinh hay một kỹ năng chỉ cần gây dựng một lần rồi sẽ có mãi mãi. Nhận thức được điều này, người Nhật đã phát triển những phương pháp độc đáo qua nhiều thế kỷ, cho phép họ phát triển, duy trì và củng cố gu thẩm mỹ nghệ thuật của mình. Các chuyên gia nước ngoài thừa nhận rằng giáo dục thẩm mỹ ở các trường học Nhật Bản toàn diện và bài bản hơn so với các quốc gia khác. Ngay học sinh lớp hai cũng đã sử dụng 36 màu sơn và biết tên từng màu. Vào một ngày đẹp trời, hiệu trưởng nhà trường có quyền cho nghỉ tất cả các tiết học để các em có thể ra ngoài vẽ tranh hoặc lắng nghe giáo viên hướng dẫn cách thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.

Tuy nhiên, việc học viết đóng vai trò then chốt trong việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Không thể phủ nhận, việc học chữ tượng hình là một gánh nặng đối với học sinh Nhật Bản. Việc này tiêu tốn rất nhiều thời gian và công sức trong những năm đầu đi học. Tuy nhiên, có một điểm khác không thể bỏ qua. Thư pháp, hay nghệ thuật viết chữ tượng hình, du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc vào thời điểm mà nó đã được coi là một loại hình nghệ thuật trong hàng nghìn năm. Vào thời điểm đó, chữ tượng hình không chỉ đơn thuần là một phương tiện giao tiếp bằng chữ viết. Giá trị của chữ viết tay của một người được coi là sự phản ánh trực tiếp tính cách của họ. Theo quan niệm thời bấy giờ, chỉ một người hoàn hảo về mặt đạo đức mới có thể trở thành bậc thầy về thư pháp. Ngược lại, bất kỳ ai thành thạo nghệ thuật viết chữ tượng hình đều được coi là người có phẩm chất tâm hồn cao. Khi học chữ tượng hình, ranh giới giữa viết và vẽ trở nên mờ nhạt. Một khi đã thành thạo các kỹ năng cơ học cần thiết, người ta không còn viết nữa mà vẽ, không phải bằng bút, mà bằng cọ, di chuyển cọ không chỉ bằng tay mà bằng cả cơ thể. Với khả năng sử dụng cọ hoàn hảo và cảm nhận về tỷ lệ hoàn hảo cần thiết cho việc viết chữ tượng hình, mỗi người Nhật về cơ bản đều trở thành một họa sĩ. Chỉ với vài nét vẽ nhanh nhẹn, tự tin, họ có thể vẽ một cành tre uốn cong với kỹ năng của một nghệ sĩ chuyên nghiệp. Sự tồn tại của thư pháp như một nền tảng của giáo dục dân tộc là một lý do quan trọng tại sao nhiều nét truyền thống của văn hóa Nhật Bản vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của các thế hệ hiện đại.

Trong một ngôi nhà Nhật Bản, có một loại bàn thờ của cái đẹp. Đó là tokonoma, một hốc tường gần nơi người đứng đầu gia đình hoặc khách ngồi. Nơi tôn kính nhất trong nhà thường được trang trí bằng một cuộn giấy có chứa một câu nói được viết bằng thư pháp, thường là một bài thơ.

Ở đây, nơi thư pháp gặp gỡ thi ca, chúng ta thấy một ví dụ thứ hai về các bài tập thẩm mỹ – thực hành phổ biến của thi ca. Thi ca luôn là một trong những hình thức nghệ thuật dân gian được yêu thích nhất ở Nhật Bản. Mỗi người có học thức đều phải thành thạo cả thư pháp và thi ca. Thể thơ phổ thông được ưa chuộng nhất là tanka hay haiku, có thể so sánh với châm ngôn hoặc trào phúng. Tanka gồm năm dòng và ba mươi mốt âm tiết, xen kẽ theo kiểu 5-7-5-7-7, trong khi haiku, vốn rất phổ biến vào thế kỷ 16, là một tanka không có câu đối cuối, nghĩa là một bài thơ gồm mười bảy âm tiết. Một bài haiku nên chứa đựng một hình ảnh nghệ thuật duy nhất, nhất thiết phải đề cập đến một trong bốn mùa, cộng với một tâm trạng cụ thể được truyền tải thông qua ẩn ý. Một bài haiku về mùa thu nói:

Tôi nhìn—một chiếc lá rụng
Lại bay lên cành:
Đó là một con bướm.

Và đây là một bài haiku về mùa hè:

Một người bán quạt
Mang theo một bó gió—
Ôi, nóng quá!

Vị trí của thơ ca trong đời sống tinh thần Nhật Bản được chứng minh bằng việc một trong những ghi chép đầu tiên được viết ra là một tuyển tập thơ được biên soạn vào thế kỷ thứ bảy. Nó được gọi là “Man’yoshu” hay “Vạn lá”.

Cho đến ngày nay, một cuộc thi thơ truyền thống vẫn được tổ chức tại Nhật Bản vào giữa tháng 1. Hàng chục nghìn bài thơ về một chủ đề nhất định được gửi đến cuộc thi toàn quốc này. Những bài thơ hay nhất sẽ được đọc tại một buổi lễ long trọng trước sự chứng kiến của Nhật hoàng và được đăng trên báo. Sự quan tâm của công chúng đối với những người viết thơ haiku xuất sắc nhất không chỉ vì các cuộc thi thơ như vậy đã được tổ chức hàng năm kể từ thế kỷ 14, mà trên hết là vì chúng vẫn là một phần không thể thiếu của cuộc sống hiện đại. Sáng tác thơ ở Nhật Bản không chỉ là đặc quyền của các nhà thơ; nó đã trở thành một hiện tượng phổ biến, nếu không muốn nói là mang tính quốc gia. Hai mươi bốn tạp chí hàng tháng, với tổng số lượng phát hành hơn một triệu bản, hoàn toàn dành riêng cho thơ ca. Từ rất lâu trước khi chữ tượng hình ra đời như một cầu nối nghệ thuật hội họa và thi ca, phong tục cùng nhau chiêm ngưỡng những hiện tượng thơ mộng của thiên nhiên đã ăn sâu vào đời sống người Nhật.

Vào mùa đông, người ta thường ngắm tuyết rơi. Vào mùa xuân, người ta thường ngắm hoa mận, đỗ quyên và anh đào nở rộ. Vào mùa thu, người ta thường ngắm lá phong đỏ thắm và trăng tròn.

Tôi đã từng đến Kyoto vào ngày trăng tròn thứ chín theo lịch cũ, khi người ta thường chiêm ngưỡng mặt trăng đẹp nhất trong năm. Một trong những nơi tuyệt vời nhất để làm điều này là Chùa Daigakuji ở Kyoto. Tôi được khuyên nên đến đó trước khi trời tối, bởi vì ngay từ 5h30, một mặt trăng tròn, to lớn lạ thường, được tạo nên từ vàng lấp lánh, đã nhô lên từ phía sau ngọn núi bên kia hồ. Hai chiếc thuyền có mái che đang di chuyển trên mặt hồ giữa những tán lá súng bạc: một chiếc có đầu rồng, chiếc còn lại có đầu phượng. Mỗi chiếc đều được trang trí bằng những chiếc đèn lồng giấy hình mặt trăng. Giống như hầu hết du khách, tôi cũng đi thẳng đến thuyền, và chỉ sau khi đi một vòng quanh hồ, tôi mới đi đến bục rộng trước chùa. Từ đó, tôi có thể chiêm ngưỡng mặt trăng và hình ảnh phản chiếu của nó trên mặt hồ một cách trọn vẹn nhất. Chỉ khi đó tôi mới nhận ra rằng những chiếc thuyền có hình rồng và phượng đang trôi nổi trên mặt hồ chính xác là để làm nổi bật bức tranh này hơn nữa, để tạo tiền cảnh.

Tất nhiên, thật dễ dàng để cười nhạo những chuyện này. Tôi nhớ công viên Ueno đã khiến tôi chán nản như thế nào khi lần đầu tiên tôi đến xem người dân Tokyo chiêm ngưỡng hoa anh đào. Một công viên nhỏ bé. Mọi người đều mang theo chiếu, đồ ăn, và dĩ nhiên là cả đồ uống. Trẻ con đuổi bắt nhau, phụ nữ trò chuyện, đàn ông hát hò, vỗ tay và lắc lư theo nhịp điệu. Thoạt nhìn, dường như người ta chẳng mấy quan tâm đến những bông hoa màu hồng điểm xuyết trên cây.

Người ta cũng có thể nhìn cảnh ngắm trăng bằng ánh mắt tương tự. Người ta có thể chế giễu những hàng xe buýt chở khách du lịch ngày càng đông đến chùa, chen chúc trong sân chùa như thể trước lối vào tàu điện ngầm. Người ta có thể cười nhạo những cô gái lái đò phải tiếp đãi ba mươi người trong vài phút lúc thuyền đi một vòng trên hồ. Mỗi cô gái phải đến gần một hành khách, quỳ xuống trước mặt anh ta, cúi chào thật thấp, trán gần như chạm sàn, rồi mời anh ta một chiếc bánh hình trăng và một tách trà được pha chế theo đúng quy tắc của trà đạo. Người ta có thể cười nhạo ông lão ngồi cạnh tôi, đang ghen tị theo dõi thứ tự các cô gái phục vụ khách. Họ phải vội vã, như tiếp viên hàng không trên máy bay, đồng thời vẫn phải giữ được sự điềm tĩnh cần thiết cho trà đạo. Người ta có thể cười nhạo việc nhiều hành khách thậm chí còn không thèm liếc nhìn vầng trăng treo lơ lửng trên mặt hồ.

Nhưng, dù sao thì sẽ bất công nếu làm thế. Suy cho cùng, những gì ta thấy tối hôm đó gợi lên, trên hết, một cảm giác tôn kính. Mọi người đến chiêm ngưỡng vầng trăng đẹp nhất trong năm như thể đó là một ngày lễ quốc gia. Thưởng thức khung cảnh này từ vọng lâu riêng tư nhìn ra hồ có lẽ còn tuyệt vời hơn. Nhưng có gì sai khi không chỉ một vài người, mà là hàng trăm, hàng ngàn người mong muốn có cơ hội này? Suy cho cùng, đó là một cái cớ để gần gũi hơn với thiên nhiên, để kết nối với vẻ đẹp của nó.

Vậy đấy, người Nhật không sùng đạo. Nhưng thay vì tranh thánh, mỗi ngôi nhà Nhật Bản đều có một kiểu bàn thờ cái đẹp – một hốc tường chứa một bình hoa, một bức tranh treo tường, hoặc một bài thơ thư pháp. Người Nhật không sùng đạo, nhưng thay vì thờ cúng tập thể, họ đã tạo ra những phong tục giúp mọi người cùng nhau phát triển gu thẩm mỹ nghệ thuật.

Thưởng thức thiên nhiên tập thể, văn chương không thể phân biệt với hội họa, thi ca đan xen thư pháp – tất cả những truyền thống này vẫn giữ được sức mạnh cho đến ngày nay, giữ được ảnh hưởng không thể phủ nhận của chúng đối với tâm lý dân tộc Nhật Bản.

Vào những thế kỷ đầu, chỉ có các nghệ sĩ làm việc—họ đã tạo ra một thể loại chữ tượng hình—một bộ bách khoa toàn thư Trung Hoa sơ khai bằng tranh vẽ. Một số bức vẽ chữ tượng hình này, với sự biểu cảm cực kỳ súc tích, đường nét tiết kiệm thông minh và sự sáng tạo đầy lôi cuốn, là những kiệt tác khó quên của nghệ thuật hội họa…

Hãy nhìn những chữ tượng hình này. Một con ngựa, bờm tung bay dữ dội trong gió, đang dựng đứng lên. Một con rồng, đầu ngẩng cao đầy chiến thắng, râu rung rinh, thân hình khổng lồ cong vút đến cực điểm, bay ngang qua bầu trời xanh vàng. Một con cá, trông giống thằn lằn, với miệng há rộng và cái đuôi đồ sộ. Phượng hoàng, được khắc họa một cách táo bạo: không thấy đầu hay chân, nhưng đường bay ngoằn ngoèo, uyển chuyển và bộ lông vũ đồ sộ, rậm rạp của nó được thể hiện rõ nét. Chiếc xe kéo, được kéo theo tất cả các quy tắc của chủ nghĩa kiến tạo châu Âu thế kỷ 20 và như thể được kéo ra từ một cuốn sách thiếu nhi do V. Lebedev minh họa. Có thể từ sáng đến tối dẫn bạn từ chữ tượng hình này sang chữ tượng hình khác mà không chán. Khi các họa sĩ đã hoàn thành tác phẩm và có thể rời đi, các triết gia đến và bắt đầu, trước tiên, tỉ mỉ đơn giản hóa các bản phác thảo của họa sĩ, đưa chúng vào cuộc sống, và thứ hai, xây dựng các chữ tượng hình trừu tượng – tạo ra các khái niệm, bởi triết học luôn là thi ca của các khái niệm.

Ví dụ, các chữ tượng hình sau đây đã xuất hiện: “lốc xoáy” – hình ảnh ba con chó; “Chọc ghẹo” – hai người đàn ông ôm một người phụ nữ; “tuân phục” – một người đàn ông với một con chó trước mặt; “nghỉ ngơi” – một người đàn ông dựa vào một cái cây; “thác nước” – nước và bạo động; “tiếng ầm” – ba chiếc xe ngựa; “cuộc chiến tuyệt vọng” – một con hổ với một con lợn rừng bên dưới; “an bình” – một người phụ nữ ngồi điềm tĩnh dưới mái nhà, và những chữ tượng hình khác.

Cùng với những thay đổi về hình thức, chữ tượng hình đã trải qua quá trình tiến hóa nội tại mạnh mẽ – chúng thay đổi ý nghĩa, bỏ tên cũ và có thêm tên mới. Ví dụ, chữ tượng hình “tắc kè hoa” qua nhiều thế kỷ đã dần mất đi ý nghĩa ban đầu và có nghĩa là “nhanh nhẹn, linh hoạt”, trong khi chữ tượng hình “mây hoặc đám mây hơi nước bốc lên” có nghĩa là “nói”.

Các nguyên tắc của hội họa Đông Á hoàn toàn dựa trên các kỹ thuật viết chữ tượng hình. Đây là lý do tại sao, nếu một khổ thơ bốn dòng được viết bên cạnh một ngọn núi uốn lượn và thác nước trong tranh của các bậc thầy châu Á, thì phong cảnh và chữ viết bổ sung cho nhau, và người xem đồng thời chiêm ngưỡng bức tranh, hình ảnh trực quan của chữ tượng hình và ý nghĩa của dòng chữ.
Roman Kim (Nga). Vẽ chân cho rắn. 1927

Sinh ra với một khiếu thẩm mỹ phong phú, người Nhật giỏi cảm nhận hơn là phân tích. Chính người Nhật đã sáng tạo ra thơ haiku—một hình thức cô đọng văn học cực đoan, nắm bắt và thể hiện bằng hình thức nghệ thuật trực giác và cảm xúc của khoảnh khắc. Ngay cả ngày nay, hàng chục triệu người Nhật Bản vẫn viết thơ haiku—một việc mà theo tôi vô cùng thú vị và đáng kinh ngạc.

Một bài thơ như vậy tác động đến người đọc cả thông qua sự kết hợp ngôn từ hữu hình bên ngoài mà nó được sáng tác và thông qua ẩn ý cảm xúc vô hình của nó. Hình thức văn học đáng chú ý này, thấm đẫm vẻ đẹp và sự tinh tế, hoàn toàn không có tính hùng biện phương Tây, không có mong muốn thể hiện mọi thứ một cách trọn vẹn, đến mức hoàn toàn rõ ràng, không để lại bất kỳ nghi ngờ nào. Tôi thấy rằng cách diễn đạt của người Nhật Bản mang những nét đặc trưng của thơ Haiku, và lối tư duy của người Nhật cũng tuân theo những quy tắc tương tự.

Michiko Inukai (Nhật Bản). Tương đồng để mà khác biệt. 1966


Con đường (đạo) là một từ được người Nhật đặc biệt yêu thích. Tuy nhiên, hình ảnh con đường đã quen thuộc với phương Đông – cả Trung Quốc và Ấn Độ – từ thời cổ đại. Con đường của sự thấu hiểu… con đường của bậc thánh… con đường của chiến binh… con đường của tình bạn… cuối cùng, con đường của sự tự hoàn thiện – một sự kết hợp ngôn từ không thể thiếu trong bất kỳ cuộc trò chuyện triết học nào ở Nhật Bản…

Trong thơ cổ điển Nhật Bản, những dòng thơ chỉ đơn thuần là một con đường dẫn đến sự sáng tạo của riêng người đọc, tức là đến sự giải quyết nội tâm cá nhân của bạn về chủ đề trữ tình được trình bày cho bạn. Nhà thơ chỉ tiết lộ cho bạn con đường dẫn đến đó. Bài thơ được viết ra đã kết thúc, và chỉ khi đó sự lĩnh hội thơ ca về chủ đề mới bắt đầu.

Boris Agapov (Nga). Ký ức về Nhật Bản. 1974

Xem tiếp phần 7: Hoa và trà.

1 thought on “Cây anh đào và cây sồi (phần 6)

  1. Pingback: Cây anh đào và cây sồi (phần 5) - Phan Phuong Dat

Leave a ReplyCancel reply