Tag Archives: kevin kelly

Sự thật luôn ở thế yếu

Ngày trước, khi mạng xã hội xuất hiện, mình từng có niềm tin ngây thơ rằng mọi người sẽ biết được nhiều sự thật hơn vì nghe được thông tin đa dạng hơn.

Với bản thân mình thì có lẽ là vậy, nhưng kết quả đó không phải là tất yếu. Cần phải tự trang bị cho bản thân năng lực đánh giá xem thông tin nào là đáng tin cậy, nguồn nào là đáng tin cậy.

Harari cho rằng khi dòng thông tin tăng lên thì, trái với niềm tin ban đầu, sự thật sẽ chìm xuống chứ không nổi lên. Tức là sẽ khó nắm bắt hơn. Ổng cũng cảnh báo tình hình sẽ còn tệ nữa khi AI ngày càng phát triển.

Kevin Kelly cũng nhận xét rằng xã hội lại quay về trạng thái khi mọi thông tin đều không có sự bảo đảm. Ngày xưa người ta nhận được thông tin chủ yếu qua truyền miệng, và rất khó để xác định đúng hay sai. Đến khi nhiếp ảnh xuất hiện thì người ta có thứ để tin – tấm ảnh hay đoạn phim. Bây giờ thì ảnh và phim cũng ko tin được, tức là quay về chỗ cũ. Vì thế ổng khuyên nên đi tìm trust thay vì truth. Hãy đừng vội tin gì đó nếu xuất phát từ nguồn không uy tín (uy tín không đồng nghĩa với ‘chính thống’, nhất là các media ‘chính thống’ mà thỉnh thoảng lại lẳng lặng tự xóa bài) kể cả khi có vẻ rất thật. Nên tìm nguồn đáng tin thay vì chọn theo những gì mình nghĩ là sự thật.

Harari chỉ ra 3 điểm mà sự thật yếu hơn so với thông tin hư cấu, tưởng tượng, dối trá (fiction, fantasies, lies):

  • Thứ nhất là sự thật rất tốn kém. Muốn tìm phải tốn công tốn của. Còn hư cấu thì chỉ việc chép ra theo suy nghĩ.
  • Thứ hai là sự thật rất phức tạp vì thực tại rất phức tạp. Ví dụ sự thật về Covid hay cuộc chiến ở Ukraine. Trong khi hư cấu thì rất đơn giản, dễ ‘đi vào lòng người’.
  • Thứ ba là sự thật có thể không dễ chịu. Ngay cả 1 người cũng có những sự thật mà mình ko muốn thừa nhận. Còn hư cấu thì rất dễ chịu, rất đáng tự hào, tha hồ tâng bốc ta và hạ thấp địch.

Như vậy đi tìm sự thật luôn phải là một nỗ lực có chủ ý, không dễ dàng. Nhưng phải làm vì nếu ko có truth thì ko có trust.

Xem video này. Phút 36:39 là nói về 3 điểm yếu của sự thật, nếu so với hư cấu.

Niềm tin bị lật ngược

Trong phần lớn lịch sử loài người, rất khó để xác định liệu điều mà ai đó nói với ta có đúng hay không. Ta có nên tin họ không? Câu trả lời phụ thuộc vào một số yếu tố: liệu tuyên bố đó có phù hợp với những gì ta đã tin là đúng hay không? Người nói có đáng tin cậy không? Trước đây họ có thành thật không? Họ cả tin hay hoài nghi về bản thân? Có ai khác có thể xác nhận những gì họ tuyên bố? Bằng chứng trông thế nào, và ta có thể kiểm tra nó không?

Việc kiểm tra những khẳng định về điều gì đó xảy ra trong quá khứ gần thì dễ. Rất khó để kiểm tra lời khẳng định về điều gì đó vừa xảy ra, đặc biệt nếu nó xảy ra ở xa. Vì lẽ đó mà ngày xưa tin đồn lan tràn. Một người nào đó mà họ tin tưởng đã kể cho họ nghe điều gì đó mà họ đã nghe được từ một người mà họ tin tưởng, và giờ họ đang kể cho bạn nghe. Trên thực tế, trước thời đại in ấn, chuỗi giao tiếp này là cách truyền tải chủ yếu hầu hết thông tin, và cực kỳ khó để lọc ra đâu là đúng, đâu là phóng đại hay sai.

Việc phát minh ra nhiếp ảnh đã thay đổi tình trạng này. Chúng ta đã đi đến niềm tin rằng bức ảnh là bằng chứng của sự thật. Bạn có thể khẳng định điều gì đó và tôi có thể không tin, nhưng nếu bạn cho tôi xem một bức ảnh về nó, thì tôi PHẢI tin. Một bức ảnh về mặc định là đáng tin cậy, trừ khi bị sửa đổi một cách rõ ràng, trái ngược với từ ngữ vốn dễ bị uốn nắn. Khi bạn xem một bức ảnh, nó vô tội, trừ khi được chứng minh là có tội. Video có cùng mặc định. Video vốn đã chân thực, trừ khi được gắn nhãn khác.

Sự xuất hiện của AI thế hệ mới đã lật ngược tính chân thực trở lại như thời xưa. Bây giờ khi ta nhìn thấy một bức ảnh, ta sẽ cho rằng đó là ảnh giả, trừ khi được chứng minh ngược lại. Khi xem video, ta cho rằng video đó đã được thay đổi, được tạo sinh, có hiệu ứng đặc biệt, trừ khi được xác nhận khác. Mặc định mới cho tất cả hình ảnh, bao gồm cả ảnh chụp, là chúng là hư cấu – trừ khi chúng được tuyên bố rõ ràng là có thật.

Tuyên bố về tính xác thực này có thể đến theo nhiều cách. Càng ngày, nguồn gốc của một hình ảnh sẽ càng được nhúng vào metadata của nó. Nó sẽ ghi mã nguồn gốc của mình là hình ảnh được tạo sinh hay hình ảnh nguyên bản, không bị thay đổi, từ một máy ảnh đáng tin cậy. Thứ hai, một hình ảnh có thể tuyên bố nguồn gốc của nó. Người hoặc tổ chức cung cấp hình ảnh có đáng tin cậy trong quá khứ không?

Chúng ta sẽ thấy rằng mặc định “tin tưởng trước, kiểm tra sau” chỉ là một sự bất thường ngắn hạn tạm thời trong lịch sử lâu dài của con người. Ta đang quay trở lại trạng thái mà ta đã ở trong phần lớn thời gian của loài người, khi chúng ta “kiểm tra trước, tin tưởng sau”. Sự tin tưởng đã bị lật ngược. Mới gần đây thôi, phản ứng mặc định ban đầu của ta đối với một bức ảnh là tin rằng nó là thật, trừ khi được chứng minh là giả. Bây giờ, phản ứng mặc định của ta đối với một hình ảnh là không tin vì cho là hình ảnh giả, trừ khi nó được chứng minh là thật.

Dịch từ nguồn: Kevin Kelly. The Trust Flip