Tag Archives: văn hóa doanh nghiệp

Văn hóa thế hệ – có phải là một loại macro culture?

Những năm gần đây, lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà tuyển dụng hay nhắc đến GenZ như một nhóm người với tâm lý hoàn toàn khác biệt: ít nỗ lực cho công việc, ưu tiên chăm sóc bản thân, không gắn bó, hay nhảy việc, v.v. Nhiều người cho là cần có những thay đổi văn hóa doanh nghiệp (VHDN) để phù hợp với văn hóa của nhóm người này. Vậy, nếu coi văn hóa của một nhóm người là cách họ cảm nhận, suy nghĩ và hành xử, thì liệu có tồn tại “văn hóa thế hệ” hay không, và đặc điểm của nó là gì?

VHDN là do một nhóm người xây dựng và phát triển thông qua một quá trình đủ lâu để thích nghi với bên ngoài và gắn kết bên trong. Quá trình lăn lộn đó đã tạo ra các ngầm định, giá trị và hành xử chung được trao truyền qua các thế hệ. VHDN không phát sinh từ số không, mà bị ảnh hưởng bởi văn hóa vĩ mô (macro culture).

Có 2 loại văn hóa vĩ mô là văn hóa dân tộc và văn hóa nghề nghiệp.

Văn hóa dân tộc đã thấm sâu trong các founder ngay từ khi họ bắt đầu tạo dựng doanh nghiệp, nên họ sẽ đem theo vào VHDN. Ví dụ người Việt thích xây dựng quan hệ cá nhân thân mật, thì quan hệ đó cũng hiện diện ở các doanh nghiệp VN.

Văn hóa nghề cũng thấm vào mọi người qua quá trình yêu thích, học tập và thực hành nghề đó. Một người thích toán từ nhỏ rồi học toán và làm toán thì sẽ có lối tư duy và hành xử thiên về logic, thích tranh luận dựa trên bằng chứng và không dễ chấp nhận áp đặt quan điểm. Văn hóa nghề nghiệp là mầm mống cho mâu thuẫn trong doanh nghiệp, vì người ta sẽ trông đợi một cách vô thức rằng đối phương cũng phải tư duy và hành xử giống mình. Văn hóa kế toán khác văn hóa bán hàng khác văn hóa IT. Giải quyết các mâu thuẫn văn hóa này, không để chúng trở thành mâu thuẫn giữa những con người cụ thể, là nhiệm vụ quan trọng của lãnh đạo.

Có thể thấy văn hóa vĩ mô có đặc tính là “ăn vào máu” người ta, có tính ổn định cao. Vì thế nên ta có thể nhận xét khá chính xác về xuất xứ dân tộc của một người qua hành vi của họ, hay nói ai đó có “bệnh nghề nghiệp”. “Bệnh” chính là thứ khác người và khó bỏ.

Liệu có hay không một văn hóa vĩ mô nữa gọi là “văn hóa thế hệ”? Theo tôi thì không, vì mấy lẽ.

Thứ nhất, rất nhiều sự khác biệt được gán cho một thế hệ cụ thể chẳng qua là khác biệt về tuổi tác. Đến khi những người đó già đi, thì họ lại hành xử đúng với tuổi của mình. Gen Y từng bị kêu ca thì giờ quay lại phàn nàn GenZ. Như vậy sự khác biệt này không ổn định theo thời gian, vốn là đặc trưng của văn hóa vĩ mô.

Thứ hai, mỗi thế hệ đều bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong xã hội đương đại, ví dụ ảnh hưởng công nghệ, khiến ta có cảm giác họ rất đặc biệt. Nhưng thực tế là tất cả các lứa tuổi đều bị ảnh hưởng chứ ko riêng gì thế hệ trẻ. Nói về lướt app hay sử dụng mxh, thì già trẻ đều có. Đúng là ta có cảm giác là ảnh hưởng của công nghệ lên giới trẻ vẫn rất khác so với người trưởng thành, nhưng đó chỉ là do bộ não của người trẻ đang trong quá trình hình thành nhân cách và mẫn cảm hơn. Sự thay đổi văn hóa có xảy ra, nhưng chỉ là sự thay đổi bình thường của văn hóa dân tộc mà mọi thế hệ đều bị ảnh hưởng, ở các mức độ khác nhau.

Như vậy, có thể nói sự khác biệt văn hóa của thế hệ trẻ chỉ là do độ tuổi và do sự thay đổi chung của văn hóa dân tộc, xảy ra bởi sự vận động của xã hội (công nghệ, toàn cầu hóa, v.v.). Không tồn tại một loại văn hóa vĩ mô là “văn hóa thế hệ”. Nhu cầu con người vẫn vậy, chỉ là bối cảnh đã khác và cách thỏa mãn nhu cầu cũng thay đổi.

Ba cái bẫy trong học tập

Hôm 26/9 vừa rồi, Cộng đồng Truyền thông Nội bộ và Văn hóa Doanh nghiệp (ICC) đã tổ chức Hội thảo Sâu Sắc thường niên lần thứ ba, với chủ đề “Ngọc trác học nghiên”. Nhận lời mời của các bạn, tôi đã có bài chia sẻ về 3 cái bẫy trong học tập, đối với cá nhân lẫn doanh nghiệp.

Continue reading

Phương pháp luận ‘Chiến tranh Nhân dân’ ở FPT

Tôi bắt đầu nghe đến cụm từ “chiến tranh nhân dân” từ anh Trương Gia Bình khi FPT bắt đầu xuất khẩu phần mềm. Anh nói về nó như một bí kíp của dân tộc, có thể áp dụng để xuất khẩu phần mềm thành công. Dạo đó tôi không quan tâm lắm, nhưng đến mấy năm gần đây khi cùng anh Nguyễn Thành Nam viết hai cuốn sách thì ảnh cũng nói nhiều đến cụm từ này, và tôi được thuyết phục rằng phương pháp luận này đúng là nguyên nhân dẫn đến thành công của FSOFT. Có lẽ đây là một bí quyết, một phương thức hành động truyền thống của dân tộc Việt Nam và đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cộng sự mà tiêu biểu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp sử dụng thành công, rồi sau này được anh TGB cùng các cộng sự sử dụng trong một bối cảnh mới.

Continue reading

Ngôn ngữ và ngữ cảnh – một ví dụ

Đối thoại 1 với shipper:

– Tôi đến rồi, anh ra lấy hàng đi nhé!
– Anh đang ở đâu?
– Ở FPT chứ ở đâu?
– Là ở chỗ nào?
– Chỗ nào là thế nào? FPT chứ chỗ nào! Phạm Văn Bạch!
– Ôi vậy anh nhầm rồi, tôi ở Duy Tân
– À à…

Đối thoại 2 cũng với shipper:

– Anh đứng đâu?
– Ở chỗ 3 lá cờ như anh bảo
– Tôi đang đứng ở chỗ 3 lá cờ đây, sao không thấy anh?
– Tôi ở bên này đường…

Trong đối thoại 1, người shipper tỏ vẻ khó chịu khi được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết. Trong đối thoại 2, shipper nghĩ là mình ở gần 3 lá cờ là đủ, thậm chí ở bên kia đường, mà không quan tâm đối phương có thể dễ dàng tìm thấy mình hay không.

Đây là các ví dụ khẳng định tiếng Việt là ngôn ngữ giàu ngữ cảnh (high context). Người đối thoại nghiễm nhiên cho rằng đối phương phải ở trong bối cảnh của mình, phải ngầm hiểu và tự suy ra, do đó không cần cung cấp đầy đủ thông tin. Họ sẽ thấy bị làm phiền khi được yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin.

Khác với ngôn ngữ nghèo ngữ cảnh (low context), khi mọi thông tin được thể hiện đầy đủ trong lời nói.

Bổ sung:

Tính chất giàu ngữ cảnh của văn hóa VN còn thể hiện ở khái niệm “nhìn đểu”, tức là người ta tự suy ra lời nói của đối phương chỉ qua ánh mắt của họ, rồi ra đáp trả bằng lời nói và hành động! Có vẻ hiện tượng này ko có ở các quốc gia khác. Nếu cảm thấy bị nhìn thì người ta cũng chỉ phản ứng bằng mắt chứ không đi quá.

Đek có bản đồ cũng tiến

Ngay đầu sách “Đek biết gì cũng tiến” có câu chuyện kể về lúc cử anh Hùng Henry sang Mỹ bán hàng năm 2000, anh Bình cứ băn khoăn là anh Hùng “trong tay không có một tấm bản đồ”. Chuyện này làm tôi nhớ đến một câu chuyện có thật khác.

Continue reading

Review sách: Chiều kích thứ tư trong kiến trúc

“Chiều kích thứ tư trong kiến trúc. Tác động của công trình lên hành vi” là một cuốn sách rất mỏng (chỉ 64 trang) năm 1975 của hai tác giả Mildred Reed Hall và Edward T. Hall, trong đó Edward T. Hall (bài wikipedia) là nhà nhân học xuất chúng người Mỹ, có nhiều phát hiện trong lĩnh vực văn hóa, ví dụ quan niệm của các dân tộc về thời gian, không gian. Các khái niệm này sau đó được Edgar Schein đưa vào công trình của ông về Văn hóa của Tổ chức.

Continue reading

Review sách: NETFLIX – Phá bỏ nguyên tắc để bứt phá

Nguyên tác: No Rules Rules. NETFLIX and the culture of reinvention (2020)

Cuốn sách mô tả văn hóa doanh nghiệp cực đoan của Netflix, thách thức các niềm tin truyền thống về quản lý doanh nghiệp, và khẳng định quan điểm rằng nên tự tin xây dựng cho mình những quy tắc riêng để giúp mình đạt được mục đích, thay vì chạy theo những “best practice” của thiên hạ. Bản thân các “best practice” của Netflix chắc không phù hợp để bạn áp dụng, nhưng bạn sẽ được thách thức để học hỏi lối tư duy của họ.

Continue reading

Nguồn gốc và nội hàm của từ “văn hóa”

Từ “văn hóa” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau do đó dễ dẫn đến tranh cãi bất tận kiểu ông nói gà, bà nói vịt. Ở VN, khái niệm văn hóa có thể là:

  • Chuẩn mực hành xử, khi nói “con người (có) văn hóa”
  • Hoạt động văn học nghệ thuật, khi nói “Nhà văn hóa quận”. Với nghĩa này, văn hóa tách biệt khỏi kinh tế.
  • Phong tục tập quán một dân tộc, khi nói “Ngày hội văn hóa các dân tộc”
  • Và văn hóa hiểu theo nghĩa khi ta nói “văn hóa Đông Sơn” hay “văn hóa Nhật Bản”, tức là tất cả những gì do cộng đồng người tạo ra trong quá trình thích ứng với thiên nhiên và gắn kết cộng đồng, cả vật thể và phi vật thể, cả ý thức và vô thức. Theo cách hiểu này thì kinh tế là một thành phần của văn hóa, chứ không chia ra như cách hiểu VH chỉ liên quan đến đời sống tinh thần. Đại ý như GS Từ Chi nói: cái gì không thuộc thiên nhiên thì là văn hóa.

Nghĩa cuối cùng là nghĩa hay được dùng trong nghiên cứu văn hóa hiện đại, bao gồm văn hóa của các tổ chức, văn hóa doanh nghiệp. Mô hình 3 cấp độ của Edgar Schein mô tả và diễn giải văn hóa theo nghĩa này.

Tại sao lại có việc sử dụng lẫn lộn như vậy? Có lẽ một phần là do gốc từ “văn hóa” được hiểu ở VN. Hóa ra, từ Hán Việt này lại có gốc… Nhật bản! Số là, khi du nhập các khái niệm phương Tây, người Nhật sử dụng các từ Hán ngữ sẵn có để chứa nội hàm mới. Sau đó bản thân người TQ cũng dùng theo, khi đến lượt họ tiếp xúc phương Tây. Theo thống kê (xem ở đây), có khoảng 300 từ Hán Việt ở VN là có gốc từ Nhật, đi qua TQ vào VN. Ngoài “văn hóa”, còn có “cách mạng”, “văn học”, v.v. Tóm lại là bình cũ rượu mới.

Cùng lúc đó, từ “văn hoá” cũ vẫn tồn tại, có gốc gác từ Kinh Dịch và mang nghĩa “văn trị, giáo hóa”. Trong mục từ “văn hóa” trên wikipedia tiếng Trung, người ta cũng phải lưu ý đừng nhầm từ “văn hóa – culture” này với khái niệm truyền thống của TQ. Do đó, nếu ai muốn giải thích khái niệm văn hóa theo kiểu bẻ chữ Hán, thì sẽ lạc hướng.

Hiểu theo nghĩa cuối cùng, thì văn hóa là kết quả, là những gì mà một cộng đồng người (dân tộc, doanh nghiệp, làng, v.v.) học được trong quá trình thích ứng với bên ngoài và gắn kết bên trong. Lúc đầu chúng chỉ là đề xuất, nhưng rồi liên tục thể hiện hiệu quả và dần được coi là hiển nhiên đúng, khỏi bàn cãi. Như vậy, văn hóa bao gồm tất cả những gì người ta học được, cả những thứ được coi là “xấu”. Khi nói đến văn hóa theo nghĩa này, sẽ vô nghĩa nếu phân biệt tốt xấu. Còn khi nói về “nét đẹp văn hóa”, thì tức là người ta muốn nói đến nghĩa đầu tiên (chuẩn mực).

Xã hội phát triển, các nhu cầu của con người vẫn vậy (ăn, giải trí, yêu đương, được công nhận, được tôn trọng, v.v.) nhưng cách thức đáp ứng thì thay đổi, nên sẽ xuất hiện các giá trị văn hóa mới. Nhiều “bản sắc”, “truyền thống” sẽ không còn chỗ đứng trong đời sống hàng ngày và phải bảo tồn có chủ ý.

Giao kèo Tâm lý (Psychological Contract)

Trong quan hệ giữa công ty và người lao động, những gì được quy định trong Hợp đồng lao động và Nội quy là quá khái quát. Thực tế là hai bên duy trì những ngầm định và kỳ vọng về nhau dưới dạng một giao kèo bất thành văn, được đặt tên là psychological contract. Có 5 giai đoạn hình thành nên giao kèo, từ lúc người lao động bắt đầu quan tâm (và hình thành kỳ vọng!) về công ty. Có 8 giai đoạn mà người lao động trải qua, cứ mỗi lần chuyển là một lần thay đổi giao kèo (ví dụ nếu tôi được bổ nhiệm thì tôi sẽ có kỳ vọng mới). Nắm được và sử dụng các yếu tố này có thể giúp tăng năng suất và động lực của nhân viên. Ví dụ sau mỗi lần đánh giá kết quả công việc lại xếp nhân viên vào 1 trong 8 nhóm để có hành động phù hợp.

Continue reading