Bạn đã bao giờ cảm thấy rằng càng hiểu biết về thế gian, bạn càng ít muốn tham gia vào nó? Đó là một cảm giác kỳ lạ, gần như nghịch lý. Những khoảnh khắc khi bạn quan sát một cuộc trò chuyện tầm thường và nhận ra mình không còn có thể tham gia với sự nhiệt tình như trước, hoặc khi bạn lướt qua các tít báo và cảm thấy một sự tách biệt ngày càng tăng, như thể đang xem một vở kịch ngớ ngẩn mà bạn không còn thấy gần gũi nữa. Vấn đề không phải là sự kiêu ngạo về trí tuệ hay cảm giác vượt trội của bản thân, mà là một sự rút lui thực sự, và thường đau đớn.
Trong suốt lịch sử loài người, chúng ta quan sát thấy một hiện tượng kỳ lạ và đáng lo ngại: nhiều cá nhân đạt đến những cấp độ ý thức và hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới rốt cuộc lại rút lui khỏi nó. Các nhà tu hành trong những tu viện biệt lập, các triết gia trong tháp ngà, các nghệ sĩ trong xưởng vẽ ẩn dật, các nhà khoa học đắm chìm trong phòng thí nghiệm.
Điều gì giải thích cho nghịch lý này? Tại sao ý thức sâu sắc hơn lại không dẫn đến sự gắn kết chặt chẽ hơn với thế giới, mà là xa lánh nó? Và quan trọng hơn, hiện tượng này có thể cho chúng ta biết gì về thời đại hiện tại, khi chúng ta thấy một đại dịch cô lập của những người mà đáng lẽ phải dẫn dắt xã hội?
Xuyên suốt lịch sử nhân loại, chúng ta có thể quan sát thấy mô hình lặp đi lặp lại. Các xã hội cổ đại đã nhận ra xu hướng này. Ở Hy Lạp cổ đại, các triết gia thường rút lui khỏi đời sống công cộng sau nhiều năm nghiên cứu và suy ngẫm. Sau những nỗ lực bất thành nhằm gây ảnh hưởng đến chính trị Syracuse, Plato đã trở về học viện của mình để giảng dạy trong một môi trường được kiểm soát, tránh xa đám đông. Ở Trung Quốc cổ đại, nhiều nhà hiền triết Đạo giáo đã từ bỏ quyền lực để sống ở những vùng núi xa xôi. Bản thân Khổng Tử, sau nhiều năm nỗ lực cải cách hệ thống chính trị, đã dành những năm cuối đời tập trung vào việc giảng dạy cho một nhóm nhỏ đệ tử, không còn cố gắng trực tiếp thay đổi xã hội nữa.
Trong các truyền thống tu viện trên khắp thế giới, từ Phật giáo đến dòng Benedictine, chúng ta thấy cùng một xu hướng. Rút lui là hệ quả của một tầm nhìn rõ ràng hơn, điều mà những truyền thống đa dạng này nhận ra là: có gì đó trong sự hiểu biết sâu sắc về thế giới có thể khiến việc tham gia trọn vẹn vào nó ngày càng trở nên khó khăn.
Nhưng điều đã thay đổi trong thời đại của chúng ta chính là quy mô và bản chất của sự cô lập này. Không còn chỉ là vài nhà sư hay triết gia. Chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng lan rộng. Những người bình thường, sau nhiều năm tiếp thu thông tin và phát triển hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới, đang dần rút lui khỏi các cuộc trò chuyện công khai, mạng xã hội, và đôi khi thậm chí cả các nhóm xã hội. Họ không nhất thiết phải ẩn vào các hang động hay tu viện, nhưng lại tạo ra những phiên bản hiện đại của những nơi trú ẩn này: các cộng đồng online khép kín, nhà ở những nơi xa xôi, hoặc đơn giản là tạo khoảng cách tâm lý trong lúc điều hướng các tương tác xã hội cần thiết một cách thờ ơ.
Có một số lời giải thích cho hiện tượng này. Đầu tiên và rõ ràng nhất là thứ mà chúng ta có thể gọi là quá tải nhận thức. Khi bạn bắt đầu nhìn thấy nhiều tầng phức tạp trong mọi vấn đề, mọi cuộc trò chuyện, mọi quyết định chính trị, thì việc tham gia vào các cuộc tranh luận mà bạn cho là dựa trên sự đơn giản hóa quá mức sẽ trở nên mệt mỏi. Hãy tưởng tượng bạn là một nhà khí hậu, cố gắng tham gia vào một cuộc trò chuyện thông thường về biến đổi khí hậu, nơi những tuyên bố không chính xác được đưa ra với sự tự tin tuyệt đối. Hoặc là một nhà sử học, lắng nghe mọi người thảo luận về các sự kiện lịch sử dựa trên các meme và những đoạn trích rời rạc. Ban đầu, bạn cố gắng sửa chữa, giải thích những chi tiết tinh tế, nhưng sau hàng trăm lần thất bại, nhiều người chỉ đơn giản là bỏ cuộc và rút lui khỏi những cuộc trò chuyện này.
Một lời giải thích thứ hai là cái có thể gọi là sự bất hòa về giá trị. Càng suy ngẫm về những điều thực sự quan trọng trong sự tồn tại của con người, bạn càng cảm thấy xa lạ với một nền văn hóa bị ám ảnh bởi địa vị, tiêu dùng và những thú vui phù phiếm. Không phải bạn tự cho mình là vượt trội, mà là sở thích của bạn thực sự đã thay đổi. Những cuộc trò chuyện từng có vẻ thú vị giờ đây trở nên trống rỗng. Những mục tiêu mà xã hội tôn vinh dường như ngày càng trở nên tùy tiện. Giống như việc thức dậy sau một giấc mơ và nhận ra rằng mọi người xung quanh vẫn đang ngủ và khăng khăng bắt bạn ngủ lại. Cảm giác tỉnh táo trong một thế giới đầy những kẻ mộng du này có thể vô cùng cô đơn.
Ngoài ra còn có yếu tố tốc độ. Nền văn hóa hiện tại của chúng ta vận hành với tốc độ điên cuồng, ưa chuộng những phản ứng tức thời hơn là suy ngẫm kỹ lưỡng. Mạng xã hội, chu kỳ tin tức, xu hướng văn hóa, mọi thứ thay đổi quá nhanh đến nỗi chúng ta hầu như không có thời gian để xử lý một sự kiện trước khi 10 sự kiện khác thay thế nó. Đối với một tâm trí trầm tư, không gian này có thể đơn giản là không tương thích với cách thức hoạt động tự nhiên của nó. Giống như việc yêu cầu một nghệ sĩ vẽ tranh tỉ mỉ tạo ra một tác phẩm nghệ thuật mới mỗi giờ. Cuối cùng, nhiều người trong số những người suy nghĩ chậm rãi và sâu sắc này đơn giản là rút lui khỏi cuộc chơi, không thể hoặc không muốn thích nghi với nhịp độ mà họ cho là đang hủy hoại tư duy có ý nghĩa.
Tuy nhiên, điều ít người bàn đến là khía cạnh đen tối hơn của sự cô lập này: chấn thương nhận thức. Nhìn thấy quá nhiều, hiểu quá nhiều có thể thực sự gây chấn thương. Hãy nghĩ đến một thiếu niên lần đầu tiên thực sự hiểu được quy mô của cuộc khủng hoảng khí hậu và cảm nhận được sức nặng khủng khiếp của thực tế đó. Hoặc một thanh niên bắt đầu nhận thức được mức độ bất công mang tính hệ thống và vừa cảm thấy choáng ngợp trước sự thật, vừa thấy bất lực trong việc thay đổi nó. Có một loại đau đớn đặc trưng đi kèm với sự hiểu biết sâu sắc về các vấn đề của thế giới, đặc biệt là khi sự hiểu biết đó không đi kèm với những lộ trình rõ ràng cho hành động có ý nghĩa.
Ngoài ra, còn có thứ mà chúng ta có thể gọi là chấn thương cô lập nhận thức. Đó là trải nghiệm nhìn thấy thứ mà người khác không thấy, hiểu được thứ mà người khác không hiểu, và không thể truyền đạt sự hiểu biết đó. Hãy tưởng tượng việc cố gắng giải thích màu sắc cho một người chưa từng thấy hoặc âm nhạc cho một người chưa từng nghe. Sau nhiều lần thất bại, nhiều người bỏ cuộc. Sự cô lập trong nhận thức này có thể đau đớn như sự cô lập về thể chất, thậm chí có thể hơn.
Vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi chúng ta xem xét vai trò của công nghệ trong thời đại của chúng ta. Công nghệ hiện đại cho phép tiếp cận nhiều thông tin hơn bao giờ hết, cho phép đạt được mức độ hiểu biết mà trước đây chỉ dành cho các chuyên gia. Đồng thời, nghịch lý thay, chính công nghệ đó lại thường đơn giản hóa, bóp méo và đẩy nhanh diễn ngôn công khai theo những cách khiến việc truyền đạt những ý tưởng phức tạp trở nên gần như bất khả thi. Chính những nền tảng cho phép chúng ta tìm hiểu về bất kỳ chủ đề nào cũng định hình giao tiếp theo những cách không phù hợp với sự tinh tế, bối cảnh và chiều sâu. Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn. Càng học hỏi và hiểu biết, bạn càng thấy các công cụ hiện có để truyền đạt sự hiểu biết đó dường như không đủ đáp ứng.
***
Trong lịch sử, các xã hội đã phát triển các cơ chế để đối phó với hiện tượng cô lập ở những người có ý thức nhất này. Trong nhiều nền văn hóa truyền thống, có những vai trò xã hội cụ thể dành cho những người có cách nhìn khác biệt. Các thầy phù thủy shaman, nhà tiên tri, triết gia, nghệ sĩ – những vai trò này thừa nhận xu hướng cô lập, nhưng cũng tạo ra các kênh để tiếp tục đóng góp cho cộng đồng. Shaman có thể sống xa bộ lạc nhưng vẫn quay trở lại để thực hiện các nghi lễ quan trọng. Nhà tiên tri có thể rút lui vào sa mạc nhưng vẫn trở về để truyền đạt thông điệp của mình. Triết gia có thể xây dựng học viện của mình bên ngoài thành phố, nhưng những lời dạy của ông cuối cùng đã định hình nên đời sống công dân.
Điều dường như đã thay đổi trong thời đại của chúng ta là chúng ta đã đánh mất nhiều cơ chế văn hóa này. Chúng ta không còn những nghi lễ hay vai trò xã hội rõ ràng cho phép vừa giữ khoảng cách cần thiết để suy ngẫm sâu sắc vừa tái hòa nhập định kỳ với cộng đồng. Thay vào đó, các thể chế hiện đại của chúng ta thường buộc phải đưa ra lựa chọn nhị phân, hoặc tham gia hoàn toàn vào nhịp độ tăng tốc và sự đơn giản hóa của văn hóa chính thống, hoặc hoàn toàn rút lui ra bên lề. Vấn đề này trở nên đặc biệt nhức nhối khi chúng ta xem xét điều này có ý nghĩa gì đối với khả năng chung của chúng ta trong việc đối mặt với những thách thức phức tạp của thời đại. Nếu những người có hiểu biết sâu sắc và tinh tế nhất về các vấn đề hệ thống đang rút lui khỏi các cuộc thảo luận công cộng, thì ai sẽ là người dẫn dắt chúng ta ứng phó với những vấn đề này?
Chúng ta đã vô tình tạo ra một hệ thống lựa chọn chống lại chính kiểu tư duy mà chúng ta cần nhất. Ví dụ, hãy lấy vấn đề AI, một trong những thách thức cốt lõi của thời đại chúng ta. Nhiều nhà nghiên cứu hiểu rõ nhất cả tiềm năng lẫn rủi ro của AI, bày tỏ sự thất vọng với tình trạng diễn ngôn đại chúng về chủ đề này. Một mặt, chúng ta có những câu chuyện giản lược về robot sát thủ và Skynet. Mặt đối lập, chúng ta có một sự lạc quan không tưởng về công nghệ, cũng đơn giản không kém. Thực tế, như các nhà nghiên cứu này biết, phức tạp và tinh tế hơn nhiều. Nhưng làm thế nào để truyền tải sự phức tạp này trong một môi trường truyền thông ưa chuộng những tiêu đề giật gân và những câu nói sáo rỗng? Nhiều người cuối cùng chỉ nói chuyện riêng với nhau tại các hội nghị học thuật và các môi trường kín, trong khi diễn ngôn công cộng tiếp tục bị chi phối bởi những tiếng nói đơn giản hóa quá mức.
Một mô hình tương tự có thể được quan sát thấy trong hầu hết mọi vấn đề phức tạp của thời đại chúng ta. Biến đổi khí hậu, bất bình đẳng kinh tế, phân cực chính trị, khủng hoảng y tế công cộng. Trong mỗi trường hợp, những người có hiểu biết sâu sắc nhất thường cảm thấy xa lạ với diễn ngôn công cộng và rút lui vào những phạm vi hạn hẹp hơn, nơi họ có thể giao tiếp với những người có cùng trình độ hiểu biết. Kết quả là cái mà chúng ta có thể gọi là sự trốn tránh ý thức khỏi những cuộc trò chuyện quan trọng nhất. Cứ như thể chúng ta đang trải qua một hình thức lựa chọn bất lợi về mặt nhận thức tập thể, nơi không gian thảo luận công cộng dần mất đi những tiếng nói có hiểu biết và phản biện nhất, và ngày càng bị chi phối bởi những người có sự tự tin cao nhất và quan điểm đơn giản nhất.
Điều này tạo ra một vòng phản hồi tiêu cực. Càng nhiều không gian công cộng bị đơn giản hóa, những người nhìn thấy sự phức tạp càng rút lui, khiến những không gian này càng trở nên đơn giản hơn. Tất nhiên, cũng có những ngoại lệ đáng chú ý. Thỉnh thoảng, những nhà truyền thông xuất chúng xuất hiện, có khả năng chuyển hóa sự phức tạp thành những hình thức dễ hiểu mà không làm mất đi tính chính xác. Những nhà tư tưởng thành công trong việc giữ một chân trong thế giới suy ngẫm sâu sắc và một chân trong diễn ngôn công cộng. Nhưng những cá nhân này rất hiếm và họ thường phải đối mặt với sự chỉ trích từ cả hai phía, bị các chuyên gia cáo buộc là đơn giản hóa quá mức, công chúng thì bảo là quá phức tạp.
Điều bị đe dọa trong sự vận động này không chỉ là chất lượng diễn ngôn công cộng của chúng ta, mà còn là khả năng tồn tại và phát triển của chúng ta như một nền văn minh. Những thách thức mà chúng ta phải đối mặt trong thế kỷ 21 mang tính phức tạp chưa từng có, đan xen công nghệ, sinh thái, kinh tế và văn hóa theo những cách vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Nếu những người hiểu rõ nhất sự phức tạp này tiếp tục rút lui khỏi những cuộc trò chuyện định hình phản ứng tập thể của chúng ta, cơ hội thành công trong việc vượt qua những thách thức này sẽ giảm đi đáng kể. Vậy giải pháp sẽ là gì? Làm thế nào chúng ta có thể tạo ra một thế giới mà việc mở rộng ý thức không nhất thiết dẫn đến sự cô lập? Để những người có tầm nhìn sâu sắc hơn sẽ không bị buộc phải lựa chọn giữa tham gia hời hợt và rút lui hoàn toàn? Một phần câu trả lời có thể nằm ở việc tạo ra những không gian và thể chế mới cho phép các phương thức và nhịp độ tương tác khác nhau.
Hãy tưởng tượng những diễn đàn công cộng không tuân theo logic lan truyền và phản ứng tức thời, mà cho phép phát triển ý tưởng theo thời gian. Những nền tảng đề cao sự tinh tế và chính xác thay vì sự phẫn nộ và đơn giản hóa. Những nghi lễ văn hóa cho phép chuyển đổi giữa trạng thái tương tác sâu sắc và suy ngẫm từ xa. Một phần khác của giải pháp liên quan đến việc phát triển các kỹ năng giao tiếp mới. Chúng ta cần một thế hệ người phiên dịch mới có khả năng kết nối các cấp độ hiểu biết khác nhau. Những người có thể sống trong nhiều thế giới nhận thức khác nhau và đóng vai trò là cầu nối giữa chúng.
Điều này không chỉ đòi hỏi kỹ năng hùng biện mà còn cả sự khiêm tốn về tri thức và sự đồng cảm sâu sắc về nhận thức. Có lẽ chúng ta cũng cần xem xét lại kỳ vọng của mình về những gì cấu thành nên sự tham gia có ý nghĩa trong xã hội. Mô hình hiện tại thường giả định rằng mọi người phải tham gia theo cùng một cách, với cùng một tốc độ, trong cùng một không gian. Nhưng một hệ sinh thái xã hội lành mạnh hơn có thể cho phép các loại hình và mức độ tham gia khác nhau. Nhận thức rằng một số hình thức đóng góp có thể đến chính là từ sự xa cách tạm thời và suy ngẫm sâu sắc.
Vấn đề này cũng mang một chiều hướng cá nhân. Đối với những người trải qua sự cô lập về nhận thức này, cần tìm ra một sự cân bằng tinh tế. Việc rút lui hoàn toàn có thể bảo vệ sự tỉnh táo về tinh thần của bạn, nhưng nó cũng tước đi những góc nhìn độc đáo của bạn với thế giới. Việc duy trì sự tham gia hoàn toàn có thể dẫn đến kiệt sức và làm tổn hại đến tính toàn vẹn trí tuệ của bạn. Thách thức đặt ra là tìm ra những hình thức tham gia chiến lược có tính chọn lọc, vừa bảo vệ sức khỏe tinh thần vừa duy trì khả năng đóng góp của bạn.
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng đây không chỉ là vấn đề trí năng hay xã hội, mà còn là vấn đề tâm linh theo nghĩa rộng nhất. Nhiều truyền thống chiêm nghiệm từ lâu đã nhận ra rằng một cái nhìn mở rộng về thực tại có thể dẫn đến cảm giác xa lánh sự đồng thuận xã hội. Những truyền thống này thường cung cấp các thực hành và cộng đồng giúp định hướng lãnh địa này, cân bằng giữa sự thấu hiểu đơn độc với sự kết nối từ bi. Ví dụ, Phật giáo đề cập đến hình ảnh Bồ tát, người đạt được giác ngộ, nhưng vẫn nguyện tiếp tục dấn thân vào thế giới để cứu giúp chúng sinh. Kitô giáo chiêm nghiệm khám phá sự cân bằng giữa đời sống chiêm nghiệm và đời sống năng động. Đạo giáo thảo luận về cách điều hướng giữa thế giới của các hình thái thông thường và sự hiểu biết về Đạo vô hình dạng. Có lẽ những truyền thống này chứa đựng trí tuệ có thể giúp chúng ta vượt qua nghịch lý đương đại về ý thức và sự cô lập.
Khi nhìn vào lịch sử tiến hóa của loài người, chúng ta thấy rằng loài người phát triển chủ yếu là những sinh vật xã hội. Bộ não của chúng ta được hiệu chỉnh cho các tương tác trong các nhóm tương đối nhỏ với giao tiếp trực tiếp và phản hồi tức thì. Thế giới mà chúng ta hiện đang tạo ra với mạng lưới giao tiếp toàn cầu rộng lớn, các hệ thống kiến thức chuyên ngành được phân chia thành từng ngăn, tình trạng quá tải thông tin và những động lực giao tiếp bị bóp méo hoàn toàn khác với môi trường mà ở đó bộ não chúng ta đã tiến hóa. Theo nghĩa này, có lẽ hiện tượng mà chúng ta đang thảo luận không hẳn là một sự bất thường mà là một phản ứng thích nghi với một môi trường thông tin, mà ở một số khía cạnh, đã trở nên độc hại đối với nhận thức tự nhiên của chúng ta.
Sự cô lập có thể được coi không phải là một thất bại, mà là một hình thức tự bảo tồn nhận thức trước một hệ sinh thái thông tin đã trở nên thù địch với tư duy lành mạnh của con người. Nếu chúng ta áp dụng quan điểm này, thì câu hỏi trở nên không phải là “Làm thế nào để xử lý những người rút lui”, mà “làm thế nào để chuyển đổi môi trường thông tin của chúng ta sao cho thuận lợi hơn cho sự phát triển nhận thức của con người”. Làm thế nào để tạo ra không gian, công nghệ và chuẩn mực xã hội hỗ trợ chiều sâu và sự tinh tế của tư duy thay vì làm xói mòn chúng?
***
Đây là một câu hỏi vượt xa chính trị thông thường và cải cách thể chế. Đó chính là việc thiết kế lại hệ sinh thái nhận thức tập thể của chúng ta, và việc thiết kế lại này không thể bị áp đặt từ trên xuống. Nó sẽ phải xuất hiện một cách tự nhiên từ các thực hành mới, công cụ mới và các loại hình cộng đồng mới. Chúng ta đã có thể thấy sự khởi đầu của những hệ sinh thái nhận thức mới này trong nhiều thử nghiệm khác nhau trên khắp thế giới. Các cộng đồng đang tạo ra các phương thức đối thoại thay thế, chia sẻ kiến thức, đưa ra quyết định tập thể. Các công nghệ được thiết kế để đào sâu tư duy thay vì đẩy nhanh nó. Không gian vật lý và ảo tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển đổi giữa các phương thức chú ý và tương tác khác nhau.
Những thử nghiệm này vẫn còn ở mức độ hạn hẹp, nhưng chúng có thể chứa đựng những mầm mống của những chuyển đổi rộng lớn hơn. Khi ngày càng nhiều người trải nghiệm nghịch lý của ý thức được mở rộng và sự cô lập mà nó gây ra, việc tìm kiếm các giải pháp thay thế cho tình trạng hiện tại trở nên cấp bách hơn. Và có lẽ trớ trêu thay, chính những người hiện đang cảm thấy bị cô lập và xa lánh nhất lại có thể dẫn đầu trong việc tạo ra những lựa chọn thay thế này.
Khả năng này mang lại điều gì đó đầy hy vọng. Điều mà giờ đây dường như là một cuộc khủng hoảng cá nhân đối với nhiều cá nhân có ý thức thực tế có thể là chất xúc tác cho một sự tiến hóa cần thiết trong cách chúng ta nhận thức, giao tiếp và hợp tác tập thể. Sự khó chịu hiện tại có thể là tiền đề cho một cách sống nhân văn hơn. Nhưng sự chuyển đổi này sẽ không diễn ra một cách tự động. Nó đòi hỏi những người trải nghiệm nghịch lý giữa ý thức và sự cô lập phải đưa ra những lựa chọn can đảm. Lựa chọn không rút lui hoàn toàn, ngay cả khi đó dường như là lựa chọn thoải mái nhất. Lựa chọn thử nghiệm những phương thức tương tác mới, ngay cả khi ban đầu chúng có vẻ lạ lẫm hoặc không hiệu quả. Lựa chọn xây dựng cộng đồng với những người cùng chia sẻ tình thế tiến thoái lưỡng nan này, ngay cả khi việc ở một mình sẽ dễ dàng hơn.
Và nó cũng đòi hỏi điều gì đó từ những người chưa trải nghiệm nghịch lý này một cách sâu sắc. Nó đòi hỏi sự sẵn lòng thừa nhận rằng có lẽ có những quan điểm và hiểu biết mà họ chưa nhìn thấy. Và sự khiêm nhường khi nghĩ rằng những người dường như đang rút lui có thể đang phản ứng với một điều gì đó thực tế và quan trọng. Điều này đòi hỏi sự kiên nhẫn để lắng nghe những phương thức giao tiếp khác, những nhịp điệu suy nghĩ khác, mà ban đầu có vẻ khó hiểu hoặc không liên quan.
Khi nói về những thách thức lớn của thời đại, chúng ta thường tập trung vào các vấn đề như biến đổi khí hậu, đại dịch, chiến tranh hạt nhân, hay AI siêu thông minh. Nhưng có lẽ ẩn sau tất cả những thách thức này là một vấn đề thậm chí còn cơ bản hơn: làm thế nào để tạo ra các hình thức tri thức tập thể và ra quyết định để có thể đáp ứng đầy đủ sự phức tạp và quy mô của các hệ thống mà chúng ta đã tạo ra. Làm thế nào để ngăn chặn khả năng nhìn nhận và thấu hiểu ngày càng tăng của chúng ta khỏi nghịch lý dẫn đến việc không thể hành động cùng nhau. Đó là một thách thức chạm đến cốt lõi của ý nghĩa làm người trong thời điểm lịch sử đặc biệt này.
Chúng ta đang phát triển những hình thức ý thức ngày càng mở rộng, có khả năng hiểu được các hệ thống ngày càng rộng lớn và phức tạp. Nhưng các thể chế, công nghệ và chuẩn mực xã hội của chúng ta về giao tiếp và hợp tác đang không phát triển cùng tốc độ. Kết quả là sự tách biệt ngày càng tăng giữa những gì chúng ta có thể thấy và những gì chúng ta có thể làm cùng nhau. Việc thu hẹp khoảng cách này có lẽ là vấn đề cốt lõi mà cơ hội giải quyết tất cả những vấn đề lớn khác mà chúng ta đang đối mặt phụ thuộc vào.
Và nghịch lý thay, những người cảm nhận rõ nhất gánh nặng của sự cô lập về nhận thức lại có thể là những người có những đóng góp to lớn nhất cho nhiệm vụ quan trọng này. Nếu bạn nhận ra nghịch lý này trong cuộc sống của chính mình, nếu bạn đã cảm nhận được gánh nặng của sự hiểu biết mở rộng và nỗi cô đơn thường đi kèm với nó, hãy biết rằng bạn không đơn độc. Có những người khác giống như bạn đang cố gắng tìm đường vượt qua vùng đất đầy thách thức này.
Và có lẽ khi bạn tìm thấy nhau và bắt đầu thử nghiệm những hình thức kết nối và giao tiếp mới, bạn có thể góp phần tạo nên những con đường mà nền văn minh của chúng ta có thể tiến tới một mối quan hệ khôn ngoan hơn với tri thức, với công nghệ và với nhau. Đây không phải là một thách thức có thể được giải quyết trong một thế hệ. Nó là một khía cạnh của câu chuyện vĩ đại về sự tiến hóa của ý thức loài người đã diễn ra hàng thiên niên kỷ.
Nhưng mỗi chúng ta, những người đang đối mặt với nghịch lý này trong cuộc sống của chính mình, đều đang tham gia vào câu chuyện này, đóng góp một phần nhỏ bé vào hướng đi của nó. Câu hỏi mà chúng ta bắt đầu là: tại sao những sinh vật có ý thức nhất lại tự cô lập mình khỏi thế giới. Có lẽ câu trả lời không phải là họ tự cô lập mình khỏi thế giới, mà là họ rút lui khỏi một phương thức tương tác cụ thể với thế giới, một phương thức đã trở nên không thể duy trì được đối với ý thức đã phát triển của họ. Và trong sự rút lui này, có lẽ họ đang vô thức chuẩn bị nền tảng cho những phương thức tương tác mới mà chúng ta vẫn chưa thể lường trước được.
Có một nghịch lý cuối cùng ở đây, mà Harari và các nhà tư tưởng đương đại khác thường chỉ ra: chính những phát triển công nghệ và xã hội đang tạo ra cuộc khủng hoảng cô lập nhận thức này cũng lại đang tạo ra những khả năng mới để giải quyết nó. Những mạng lưới toàn cầu có thể khiến tâm trí chúng ta choáng ngợp bởi thông tin hời hợt cũng có thể cho phép những tâm hồn đồng điệu tìm thấy nhau ở những khoảng cách xa xôi. Những công cụ kỹ thuật số vốn phân tán sự chú ý của chúng ta cũng có thể được thiết kế lại để hỗ trợ tư duy sâu sắc hơn và sự hợp tác ý nghĩa hơn. Nếu những suy ngẫm này chạm đến điều gì đó bạn đã từng cảm nhận nhưng có lẽ chưa tìm được từ ngữ để diễn đạt, hãy biết rằng bạn không đơn độc.
Datpp chuyển ngữ từ video dưới đây (có thể các ý là của Harari và được tổng hợp lại, nhưng giọng nói là AI, và cũng ko thấy bài viết nào của Harari giống thế này)