Category Archives: Tâm lý học

Các bài liên quan đến tâm lý học, hỗ trợ tâm lý

Huyền thoại về học tự động

Bài ngày 27/5/25 của Nicholas Carr trên substack New Cartographies “The Myth of Automated Learning” về tác hại của Gen AI đối với việc học. Bản dịch của DatPP. Nicholas Carr là tác giả viết nhiều sách về mặt trái của công nghệ, đã có nhiều quyển được xuất bản tiếng Việt và gây chú ý như Trí tuệ giả tạo, Lồng kính. Cuốn mới nhất, năm 2025, là “Superbloom. How technologies of connection tear us apart”.

Continue reading

Ngôn ngữ và ngữ cảnh – một ví dụ

Đối thoại 1 với shipper:

– Tôi đến rồi, anh ra lấy hàng đi nhé!
– Anh đang ở đâu?
– Ở FPT chứ ở đâu?
– Là ở chỗ nào?
– Chỗ nào là thế nào? FPT chứ chỗ nào! Phạm Văn Bạch!
– Ôi vậy anh nhầm rồi, tôi ở Duy Tân
– À à…

Đối thoại 2 cũng với shipper:

– Anh đứng đâu?
– Ở chỗ 3 lá cờ như anh bảo
– Tôi đang đứng ở chỗ 3 lá cờ đây, sao không thấy anh?
– Tôi ở bên này đường…

Trong đối thoại 1, người shipper tỏ vẻ khó chịu khi được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết. Trong đối thoại 2, shipper nghĩ là mình ở gần 3 lá cờ là đủ, thậm chí ở bên kia đường, mà không quan tâm đối phương có thể dễ dàng tìm thấy mình hay không.

Đây là các ví dụ khẳng định tiếng Việt là ngôn ngữ giàu ngữ cảnh (high context). Người đối thoại nghiễm nhiên cho rằng đối phương phải ở trong bối cảnh của mình, phải ngầm hiểu và tự suy ra, do đó không cần cung cấp đầy đủ thông tin. Họ sẽ thấy bị làm phiền khi được yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin.

Khác với ngôn ngữ nghèo ngữ cảnh (low context), khi mọi thông tin được thể hiện đầy đủ trong lời nói.

Bổ sung:

Tính chất giàu ngữ cảnh của văn hóa VN còn thể hiện ở khái niệm “nhìn đểu”, tức là người ta tự suy ra lời nói của đối phương chỉ qua ánh mắt của họ, rồi ra đáp trả bằng lời nói và hành động! Có vẻ hiện tượng này ko có ở các quốc gia khác. Nếu cảm thấy bị nhìn thì người ta cũng chỉ phản ứng bằng mắt chứ không đi quá.

Nuôi dạy những đứa trẻ không-màn hình (screen-free)

Bài viết Raising Screen-Free Boys ngày 10/3/2025 trên substack After Babel, của tác giả Katherine Johnson Martinko. Người dịch: Nông Bích Vân.

Hãy giữ an toàn cho bọn trẻ ở mức cần thiết chứ không phải ở mức cao nhất có thể

Continue reading

Thông điệp gì từ bộ phim Adolescence

Ở cảnh cuối, khi người bố vuốt ve con gấu bông và thổn thức “xin lỗi con trai, lẽ ra bố có thể làm tốt hơn”, ta hiểu rằng ông đã thực sự cố gắng làm mọi thứ tốt nhất cho con mình. Vậy tại sao tai nạn lại ấp đến? Điều mà ông, cũng như tất cả người lớn chúng ta, không ngờ tới là: bối cảnh phát triển của vị thành niên (VTN) ngày nay đã rất khác…

Continue reading

Cái giá phải trả cho giải trí đại chúng

Bài luận của Andrew Trousdale về cuốn sách “Giải trí đến chết” của Postman, với việc đối chiếu vào các phương tiện social media ngày nay. Bài đăng trên substack After Babel của Jonathan Haidt ngày 24/2/2025, bản dịch lược bỏ phần giới thiệu của Haidt.

The Price of Mass Amusement

Những cảnh báo có tính tiên tri của Neil Postman về việc các công nghệ truyền thông mới bắt ta đánh đổi những gì.

Continue reading

Đởm lượng

Ghi chú về một số từ quan trọng trong cuốn Grit: the Power of Passion and Perseverance của Algela Duckworth, tựa của bản dịch tiếng Việt là “Vững tâm bền chí ắt thành công. Grit. Sức mạnh của đam mê và kiên trì”.

Grit nên dịch là gì?

Bản tiếng Việt dịch grit là Bền bỉ. Đồng thời dịch perseverance là Kiên trì. Hai từ này tạo cảm giác giống nhau khi đọc. Ngoài ra còn có thêm Vững tâm và Bền chí, khiến cho mọi thứ cứ na ná nhau hết cả.

Một phiên bản dịch grit sang tiếng TQ là Đởm lượng (hoặc Đảm lượng, 胆量). Đởm là mật, Đởm lượng là kiểu Lớn mật. Từ Đởm lượng được dùng nhiều trong truyện kiếm hiệp. Theo lời kể của Việt Phương, tướng Nguyễn Sơn từng phát biểu trong một cuộc họp giai đoạn Toàn quốc kháng chiến: “Cuộc chiến sắp tới sẽ lâu dài tàn bạo vô cùng. Phần thắng chỉ giành cho ai đủ ý chí, đởm lượng.

Như vậy, grit có thể được dịch là Đởm lượng.

Perseverance nên dịch là gì?

Trong sách, tác giả đề xuất công thức Grit = Passion & Perseverance. Passion dịch là đam mê, còn perseverance nên dịch là gì?

Tiếng Anh có hai từ có nghĩa rất gần nhau: persistence và perseverance. Nếu dịch ra tiếng TQ, ta có thể có phương án Kiên trì 坚持 và Nghị lực 毅力.

Hai từ tiếng Anh này khác gì nhau? Có một giải thích dễ hiểu và phù hợp với nội dung cuốn sách: persistence là khi bạn theo đuổi làm một việc gì đó mà bạn biết trước là kết quả sẽ như thế nào, còn perseverance là bạn theo đuổi làm một việc mà bạn KHÔNG biết là kết quả sẽ thế nào. Như vậy, perseverance thường là một quá trình kéo dài hơn rất nhiều, và – khác với persistence – có thể khiến bạn bỏ cuộc vì thấy tương lai mờ mịt. Như vậy, nếu nói về theo đuổi đam mê, theo đuổi sự nghiệp, thì perseverance sẽ là từ phù hợp hơn, vì không rõ kết quả trông sẽ thế nào.

Vậy thì nên dịch perseverance là Nghị lực, còn Kiên trì thì dành cho persistence. Ta có:

Grit = Passion & Perseverance
Đởm lượng = Đam mê & Nghị lực

Liệu pháp Tập trung vào Giải pháp là gì? (Solution-Focused Therapy)

Liệu pháp Ngắn hạn Tập trung vào Giải pháp (SFBT – Solution-Focused Brief Therapy), còn được gọi là Liệu pháp Tập trung vào Giải pháp (SFT) được Steve de Shazer (1940-2005) và Insoo Kim Berg (1934-2007) xây dựng nên cuối những năm 1970, với sự hợp tác của các đồng nghiệp tại Trung tâm Trị liệu Gia đình Ngắn hạn Milwaukee (Milwaukee Brief Family Therapy Center). Đúng như tên gọi, SFBT tập trung vào tương lai, hướng đến mục tiêu và tập trung vào các giải pháp thay vì tập trung vào các vấn đề khiến thân chủ tìm đến để trị liệu (tức là khác với trị liệu phân tâm học, vốn hướng đến quá khứ của thân chủ và nguyên nhân của vấn đề của họ).

Continue reading

Quan hệ liên cá nhân tốt đẹp là quan hệ trị liệu tâm lý

Trong sách Động lực và Nhân cách của Maslow có một chương đặc biệt mà tôi rất thích. Đó là Chương 15 với tựa đề Trị liệu tâm lý, sức khỏe và động lực. Trong chương này, tác giả bàn về trị liệu tâm lý từ góc nhìn của lý thuyết động lực, và vai trò của các mối quan hệ liên cá nhân trong trị liệu tâm lý. Một vài ý mà tôi thu hoạch được:

1. Trị liệu tâm lý theo phân tâm học là liệu pháp thấu hiểu (insight), giúp thân chủ nhìn thấy và hiểu được các xung lực, các vấn đề của bản thân mà trước nay họ không nhận ra vì nhận thức của họ bị bóp méo. Để làm được việc này, nhà trị liệu phải được đào tạo rất kỹ và đáp ứng nhiều điều kiện khác nhau, do đó không thể trông chờ vào số lượng các nhà trị liệu giỏi.

2. Ngoại trừ các trường hợp loạn thần kinh, đa số những người cần trị liệu (hay phân tích, hay tư vấn) tâm lý là những người không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản theo lý thuyết Maslow. Đó là các nhu cầu bậc cao hơn, ví dụ cảm giác thân thuộc, được yêu thương, tự tôn, tự hiện thực hóa. Nếu một mối quan hệ trị liệu nghiệp dư có thể giúp họ dần thỏa mãn những nhu cầu này, thì cũng sẽ có kết quả. Và người kia cũng sẽ có sự thấu hiểu hơn về bản thân.

3. Các nhu cầu cơ bản như thân thuộc, tôn trọng, v.v. không thể được thỏa mãn nếu không có những người khác. Không thể thỏa mãn bằng việc tương tác chỉ với thiên nhiên hay động vật. Nhu cầu chỉ được đáp ứng thông qua người khác.

4. Mối quan hệ trị liệu như thế có thể đến từ bất kỳ ai. Thực tế là từ xưa đến nay, khi người ta không hề biết đến, hoặc không thể tiếp cận, nhà trị liệu chuyên nghiệp, thì người ta vẫn tìm đến những nhà tư vấn tâm lý tự phát – một người bạn, một già làng, người bác tốt bụng, thầy giáo được kính trọng, nhà tu hành, v.v. Những người này, không ý thức rằng mình đang trị liệu tâm lý, đã cho người kia cảm giác được lắng nghe, được che chở, tôn trọng, v.v. và rốt cuộc đã “chữa lành”. Như vậy, mọi mối quan hệ liên cá nhân tốt đẹp đều là quan hệ trị liệu tâm lý.

5. Vì vậy, người có nhu cầu trị liệu không nên nhìn nhận trị liệu tâm lý như một việc gì đó bất đắc dĩ, thậm chí đáng xấu hổ, kiểu như phải đi khám chữa bệnh. Thay vào đó, nên tận dụng các mối quan hệ tốt đẹp. Những người có thể trị liệu không chuyên cho người khác thì nên tìm cách tự đào tạo, để thấu hiểu và có thể làm tốt hơn.

6. Khi đó, các nhu cầu về trị liệu sẽ được giải quyết ở quy mô rộng, các nhà trị liệu chuyên nghiệp có thể dành công sức cho những ca khó, ví dụ cho những trường hợp loạn thần kinh, khi mà trong họ các nhu cầu cơ bản bị thay thế bởi các nhu cầu quái lạ sinh ra do loạn thần kinh.

Đọc xong chương này và sách này, tôi thấy tự tin hơn trong việc có thể hỗ trợ về tâm lý cho những người có nhu cầu và muốn được tôi giúp đỡ. Theo Maslow, khi đó tôi đang tham gia vào lực lượng thiện lành, góp phần bé nhỏ giúp làm giảm tình trạng rối loạn tâm lý trong xã hội. Có thể đó cũng là một nhu cầu tự hiện thực hóa của tôi.

Tất cả mọi người, các bố mẹ, các thầy cô giáo, v.v. nếu muốn đều có thể tự học để trở thành một nhà trị liệu nghiệp dư như vậy, để giúp đỡ hiệu quả cho những người thân quen của mình, nhất là trong bối cảnh gia tăng của các trường hợp cần được hỗ trợ.

New Big Five: một lý thuyết động về tâm lý học nhân cách (personality)

Trước nay khi nói về tâm lý học nhân cách, người ta hay nhảy ngay vào các mô hình phân chia con người thành các nhóm khác nhau. Ví dụ chia theo kiểu Jung, Allport, MBTI, Big Five (OCEAN) hay vô số kiểu khác. Phương Đông cũng chia theo mệnh Ngũ hành, và xác định đặc tính cho những người thuộc một mệnh nào đó. Các mô hình này đều tĩnh, không giải thích được quá trình hình thành nên nhân cách.

Continue reading