Ruben David Gonzalez Gallego. “Trắng trên Đen”
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga: Phương Hoài, 8-2004
Sách được Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phối hợp với NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 với tựa “Những dải trắng trên nền đen”.
Một người Đức
Thầy bước vào lớp bằng dáng đi nhanh nhẹn, tất tả, kéo ghế ngồi xuống. Không nhìn chúng tôi, thầy bắt đầu sang sảng đọc thơ. Thầy đọc rất lâu. Rồi đứng dậy, nhìn bao quát lớp.
– Đó là Goethe. Thầy đọc bằng tiếng Đức. Có thể đến một lúc nào đó các em cũng sẽ đọc được Goethe nguyên tác. Thầy là giáo viên ngoại ngữ mới của các em.
Thầy đi tới bàn, mở sách ra.
– Trước tiên thầy phải xin lỗi Ruben. Ruben, thầy rất tiếc là không thể dạy em tiếng Tây Ban Nha. Thầy không biết tiếng Tây Ban Nha. Tạm thời em hãy học tiếng Đức. Nếu em biết tiếng Đức, em có thể học được bất cứ ngoại ngữ nào, hãy nhớ điều đó.
Tôi đã ghi nhớ.
Một người thầy kì lạ, rất kì lạ. Thỉnh thoảng giữa tiết học, thầy lại lãng đi và đọc thơ một lúc lâu. Thầy kể cho chúng tôi nghe về nước Đức một cách say mê và nhiệt tình. Thầy rạng rỡ vì hạnh phúc khi đội tuyển bóng đá quốc gia Đức thắng trận. Với thầy, thứ gì của Đức cũng đều tốt đẹp. Một người thầy thật sự, gàn, cuồng tín.
***
Giờ tiếng Đức. Lớp học ồn ào, chúng tôi tranh luận với thầy giáo. Đề tài tranh luận vẫn thế: ưu điểm của nước Đức. Có thể tranh luận về bất cứ điều gì, ngoài thất bại của Đức trong Đại Chiến Hai. Nếu có ai nhắc đến chiến tranh, thầy giáo sẽ im lặng, sẽ bắt đầu vội vã lau kính. Sẽ yêu cầu mở sách giáo khoa bằng một giọng khô khan vô cảm và sẽ bắt đầu đọc to bảng động từ tiếng Đức dài ngoằng ngoẵng.
Đôi mắt thầy sáng rực, má ửng đỏ. Thầy trịnh trọng nói cho cả lớp biết tên những nhà soạn nhạc, triết học, nhà thơ người Đức. Thầy nói gần như hét lên về những ưu điểm của những con tàu Đức. Thầy hạnh phúc, thầy hài lòng. Chúng tôi chẳng có gì để phản đối cả. Chúng tôi chuyển sang bàn luận về nông nghiệp. Chúng tôi khâm phục lắng nghe về những tạ và héc ta, về khối lượng sản xuất và những vụ mùa bội thu chưa từng thấy.
Một câu hỏi lí nhí của ai đó phá hỏng tất cả:
– Thế còn chà là?
– Chà là nào?
– Ở Đức có chà là không?
Thầy chùng xuống, cụt hứng. Chúng tôi lại đọc to bảng động từ tiếng Đức dài bất tận.
***
Thầy tiến lại gần tôi, ngồi xuống. Tay thầy cầm một túi giấy đựng chà là.
– Em ăn không?
– Cảm ơn thầy.
Chúng tôi ăn chà là, im lặng. ăn hết chỗ chà là. Thầy nặng nhọc đứng lên, phủi quần.
– Ở Đức không có chà là. Đó là sự thật. Hoàn toàn không mọc.
Bài hát
Những bài hát không phải của Liên xô, của nước ngoài. Những bài hát được ghi lên phim. Các cư dân của cô nhi viện mang về những phim X-quang trắng từ các chuyến đi liên miên tới các bệnh viện, rồi đổi lấy phim có ghi bài hát theo tỷ lệ một ăn hai. Kinh doanh mà.
Những bài hát ăn khách vô hại của Phương Tây khiến các cô giáo dưỡng hoảng hốt.
– Các em có biết họ hát về cái gì không?
Chúng tôi không biết. Người ta tịch thu đĩa hát của chúng tôi, hành vi của những kẻ vi phạm bị kiểm điểm trước hội đồng giáo viên toàn trường, cuộc đấu tranh chống lại ảnh hưởng của bọn tư bản diễn ra khắp nơi. Một cuộc đấu tranh vô nghĩa.
Các cậu bé bắt đầu để tóc dài. Từ Matxcơva gửi tới tài liệu hướng dẫn đấu tranh với “tệ nạn”. Tóc của học sinh không được dài quá giữa tai. Người ta đo tai bằng thước kẻ, xác định điểm giữa bằng mắt. Một cuộc đấu tranh dai dẳng diễn ra để có được một mái tóc đẹp hơn người bên cạnh.
Cuộc chiến tranh vì mái tóc dài không liên quan gì đến tôi. Tôi luôn bị cạo trọc lốc, có thể bởi vì tôi không đi được.
Tôi rất muốn biết người ta hát về điều gì trong các đĩa hát. Tôi muốn học ngôn ngữ của họ.
Bức thư
Đó là một cô nhi viên tồi tệ, rất tồi tệ. Thức ăn tồi tệ, những người lớn tồi tệ. Tất cả đều tồi tệ. Cô nhi viện cũng như nhà tù, có nhiều loại. Cô nhi viện đó đặc biệt tồi tệ. Tệ nhất là phải chịu đựng cái lạnh: cô nhi viện không được sưởi ấm. Mùa đông đặc biệt tồi tệ. Mực trong bút máy đông cứng lại. Trong lớp học lạnh, trong phòng ngủ lạnh, khắp nơi lạnh dù tôi có bò đi đâu cũng vậy. Trong các cô nhi viện khác, chỉ ngoài hành lang mới lạnh, còn trong cô nhi viện này chỗ nào cũng lạnh, trong các cô nhi viện khác thậm chí ở hành lang có thể bò lại gần lò sưởi cho ấm, trong cô nhi viện này lò sưởi là những cục sắt lạnh ngắt. Một cô nhi viện tồi tệ, rất tồi tệ.
Người ta mang đến một thành viên mới. Bại não. Thằng bé to lớn đang lên cơn co giật. Những cơn co giật mạnh như vậy thường ít xảy ra. Người ta xốc nách nó, kéo vào phòng ngủ, đặt lên giường.
Khuôn mặt méo mó, lời nói khó nghe, hầu như không thể nghe được. Tôi hiểu tất cả. Nó không được thông minh cho lắm, nhưng cũng không hoàn toàn là kẻ thiểu năng như tất cả mọi người đều nghĩ, từ cô giáo dưỡng cho đến các bạn cùng lứa. Nó ngồi trên giường, luôn nhắc đi nhắc lại một âm thanh, gần giống như tiếng chim “xl”, “xl” như một câu thần chú. Trong tiếng Nga không có từ nào chỉ có phụ âm. Tôi biết điều này và đoán được nguyên âm qua môi, chính xác hơn là qua cử động của cơ mặt. Cậu bé không thần kinh. Đêm ngày nó chỉ nhắc mỗi một từ đơn giản: “xe lăn”. Cũng khó mà coi nó là người bình thường. Nó vẫn chưa hiểu gì hết, chẳng hiểu gì hết cả. Trong cô nhi viện này, ăn còn chẳng có, nói gì đến xe lăn?
Các cư dân cô nhi viện có quyền viết thư cho bố mẹ. Mỗi tuần cô giáo dưỡng lại kiên trì khuyên bọn trẻ viết thư. Tuần nào bọn trẻ cũng thẳng thừng từ chối viết thư về nhà. Lũ trẻ ngu ngốc. Chúng được phát không một chiếc phong bì, một tờ giấy trắng.
Ở các lớp bé hầu như đứa trẻ nào cũng viết thư. Những bức thư của bọn trẻ được đưa cho cô giáo dưỡng, cô sửa những lỗi chính tả, cho thư vào phong bì và gửi đi. Tất cả đều biết điều gì nên viết trong những bức thư. Tất cả đều viết về kết quả học tập, về những người lớn ân cần, về lớp học đoàn kết. Mỗi khi đến ngày lễ, bọn trẻ được phát những bưu thiếp rất đẹp, giống hệt nhau, để chúc mừng bố mẹ. Người lớn đặc biệt thích bưu thiếp. Với mỗi bưu thiếp, phải dùng thước kẻ và bút chỉ để kẻ dòng, sau đó viết nháp lời chúc mừng. Cô giáo dưỡng sửa lỗi bản nháp. Lúc đó mới được viết lại lời chúc mừng bằng bút chì vào bưu thiếp, rồi sau đó, nếu không có lỗi, mới được tô lại bằng bút mực. Ai cũng biết những điều gì không được viết. Không được viết về những điều tồi tệ, thí dụ bọn trẻ bị cấm viết về chuyện ăn uống. Đặc biệt là về chuyện ăn uống. Nhưng trong thư, không hiểu tại sao các bậc phụ huynh ngốc nghếch lại cứ luôn hỏi về chuyện ăn uống. Bởi vậy tất cả các bức thư đều bắt đầu giống nhau: “Chào mẹ, chúng con được ăn rất tốt”. Người ta tuyên dương những đứa có thư tốt, còn những bức thư không tốt thì bị phê bình. Những bức thư đặc biệt tồi tệ được đọc to cho cả lớp nghe.
Học sinh lớp lớn không viết thư. Cô nhi viện thế nào thì các bậc phụ huynh cũng đã biết. Cần gì phải khiến họ thêm lo lắng? Còn nếu như ai đó cần viết thư, thì luôn có thể mua được phong bì, họ có tiền. Chỉ có những đứa trẻ không được thông minh cho lắm mới đưa thư cho các cô giáo dưỡng. Ai cũng biết, theo quy định, cô phải mang thư về nhà đọc và chỉ sau đó mới quyết định có gửi thư hay không. Bất cứ người lớn nào cũng có thể bỏ thư vào thùng thư. Thường các bảo mẫu hay được nhờ thực hiện việc nhỏ này, còn có một đứa chuyên gửi thư qua các tài xế chở bánh mì. Hàng ngày người ta thường chở bánh mì đến cô nhi viện. Thằng bé tới bên bác tài, nói thầm với ông ta: “Bác bỏ giúp cháu bức thư vào thùng với”. Bác tài nhìn xung quanh, lặng lẽ cầm lấy bức thư và ngồi vào xe. Thư của nó được gửi đi ngay trong ngày, cha mẹ nó biết được điều này qua dấu bưu điện trên bì thư. Nó tự hào thuyết phục chúng tôi rằng tất cả các lái xe đều tốt. Bố nó là lái xe.
Có thể cô giáo dưỡng thật sự tin rằng các học sinh lớp lớn không viết thư, có thể cô có chút nghi ngờ, nhưng hàng tuần cô vẫn kiên trì khuyên tất cả bọn trẻ viết thư. Cô nói, tất cả im lặng. Đã thành lệ như vậy. Nếu cô giáo dưỡng cố tình ép buộc ai đó, cậu này sẽ phải làm ra vẻ là đã quyết định viết thư. Nó viết vội ra tờ giấy: “Món cháo đại mạch làm con choáng”, bỏ vào phong bì và dán lại bằng loại keo dùng để dán máy bay mô hình. Không một bức thư nào loại đó đến được địa chỉ, nhưng cũng chẳng ai quan tâm. Bù lại cậu bé đó sẽ không bị ép đến lần thứ hai.
Thằng bé mới đến luôn ngồi trên giường kêu khóc. Lúc đầu, các bà bảo mẫu đối xử với nó không tệ, buổi sáng họ đưa nó từ trên giường xuống sàn, hỏi nó xem phải đặt thế nào để nó có thể bò được. Thằng bé tàn tật nằm ngửa, giãy giụa chân tay trong không khí, ọ ẹ điều gì không rõ. Khi người ta đặt nó nằm sấp, nó kêu còn to hơn. Các bà bảo mẫu đặt nó trở lại giường và bỏ đi. Họ còn có thể làm được gì?
Nó kêu la, giãy giụa và khóc. Ngày cũng như đêm. Những đứa cùng lớp lúc đầu muốn đánh nó để nó im miệng, nhưng họ không làm điều đó. Họ không đánh kẻ thiểu năng. Họ chỉ yêu cầu quản trị chuyển nó sang phòng khác. Chẳng ai muốn ngủ trong tiếng la hét suốt đêm của nó. Trong lúc người lớn còn đang quyết định nên chuyển thằng bé bất hạnh đi đâu, các thanh niên cố gắng mua vui thằng ngốc. Họ mang đến cho nó bóng bay, đồ chơi trẻ con – chẳng ích gì. Các cậu bé không đầu hàng. Phải có gì đó khiến thằng bé thích. Có người mang cho nó một cuốn vở, một cuốn vở kẻ ô li dày cộp. Nó như bị hút vào cuốn vở, không khóc nữa và đột nhiên nói một cách rõ ràng: “đưa”. Thành công bất ngờ khiến ai cũng vui mừng. Họ yêu cầu nó nói lại từ “đưa”. Nó nhắc lại và mỉm cười. Từ “đưa” được nó nói rất rõ. Nó có thể phát âm rõ ràng hầu như không vấp váp từ “mẹ”, “bố”, “đưa”, “có” và “không”. Từ “không” nó nói một cách khó nhọc, đầu tiên là âm “kh” hầu như không nghe thấy, sau đó là yên lặng rồi âm “ông” kéo dài. Nhưng điều đó cũng quá đủ. Nó đòi bút. Họ đưa bút cho nó, và không đợi yêu cầu, họ bê bàn đến, đẩy bàn lại gần giường nó. Họ đặt bút lên bàn. Nó thoáng lặng đi, rồi bỗng cầm bút bằng tay phải một cách khéo léo, tự tin xoài cả người ra bàn, đè lên cuốn vở, mở vở bằng cằm và chọc bút vào trang giấy trắng. Nó ngồi: tay giang ra hai bên, co giật một cách vô nghĩa, đôi chân dưới gầm bàn run rẩy không theo nhịp. Nó cười, các chàng trai cũng cười theo nó.
Cuộc sống của kẻ mới đến đã thay đổi. Đêm đêm nó ngủ ngon lành, còn sáng ra các bà bảo mẫu nhét bút vào tay nó, đặt trước mặt nó quyển vở. Cả ngày nó ngồi trên giường, khi thì ngả cả người lên cuốn vở, cố gắng chọc bút vào trang giấy trắng, khi lại cong người vì cười khi ngắm nghĩa những bức tranh của mình. Trong hai tuần các thanh niên cùng phòng được ngủ yên. Trong hai tuần, thằng bé ngốc nghếch nhẫn nại vẽ vào vở những nét móc, những vòng tròn ẩn ý, những biểu tượng và kí hiệu mà chỉ mình nó nhìn thấy. Khi cuốn vở không còn chỗ trống nữa, nó lại thét lên. Nó lại kêu khóc. Trong cô nhi viện vở rất hiếm, hơn nữa lại là vở kẻ ô ly. Nhưng thằng ngốc muốn vẽ, các chàng trai thì muốn đêm được ngủ. Người ta mua cho nó cuốn vở mới, để mặc cho nó vẽ. Nó thậm chí không thèm nhìn cuốn vở mới. Nó ném bút xuống sàn, đặt cuốn vở, thứ đồ chơi nhàu nát, đã trở nên vô dụng, cạnh người và gào khóc.
Giờ thì ai cũng hiểu nó kêu gì. Nó kêu: “Mẹ”. Nó khóc rất to. Các cậu bé đã hơi quen với ngôn ngữ của nó. Tất cả đều cố gắng hiểu xem nó còn muốn gì nữa, thuyết phục nó thôi kêu khóc, hứa sẽ mang đến cho nó thêm nhiều vở – vô ích. Bọn họ nói với nó hết từ này đến từ khác, nó đều trả lời “không”. Sau đó họ bắt đầu nói theo bảng chữ cái, nếu nó thích chữ cái nào, nó sẽ nói “có”. Thành một từ “thư”. Rõ rồi. Nó muốn những bức tranh của mình được gửi tới mẹ. Bọn họ gọi cô giáo dưỡng tới. Cô xem xét cuốn vở rất lâu. Những trang giấy nhàu nát dày đặc những kí hiệu gì đó. Có chỗ các kí hiệu đứng cách nhau, có chỗ lại chen chúc dày đặc thành một cục những đường giao nhau bằng mực. Một số trang phủ kín những vòng tròn. Những vòng tròn kích cỡ khác nhau, không phải lúc nào cũng khép kín, phải thật sự cố gắng mới có thể coi đó là chữ “o”. Nhưng ai lại đi viết chữ “o” hai trang liền?
Cô giáo dưỡng từ chối gửi cuốn vở cho bố mẹ nó. Đó là một bức thư, cô cần phải biết nội dung của nó. Thế là ầm ĩ cả lên. Làm sao có thể tìm được nội dung gì ở những bức tranh vô nghĩa? Cô giáo dưỡng nghiêm khắc sẽ đi về nhà sau ca trực, sẽ ngủ một giấc, còn các thanh niên lại phải ngủ trong tiếng kêu khóc của thằng ngốc sao? Cô giáo dưỡng buộc phải tìm ra một lối thoát khỏi tình thế không hề thú vị này. Cô lại gần đứa mới đến.
– Đây là một bức thư?
– Không.
– Đây là những bức tranh của cháu?
– Có.
– Cháu muốn cô gửi chúng cho mẹ?
– Có.
– Có thể chúng ta sẽ không gửi cả cuốn vở cho mẹ? Chúng ta sẽ chọn những bức đẹp nhất và gửi đi?
– Không. Không.
Nó nói “không” hai lần – từ mà thường nó nói rất khó khăn. Rồi gào lên. Nó thét “mẹ”, đập chân và cố gắng nói “không” một lần nữa. Nhưng không được.
– Được rồi, được rồi. Cô hiểu cả rồi. Mẹ rất thích khi cháu vẽ. Cô sẽ gửi cho mẹ cháu tất cả các bức tranh của cháu. Cô sẽ viết cho mẹ cháu một bức thư. Cô sẽ viết rằng cháu rất thích ở đây, cháu có nhiều bạn và rất thích vẽ. Cháu thích ở đây chứ?
– Có.
Và họ đã thoả thuận xong. Cô giáo dưỡng gửi cuốn vở cho cha mẹ đứa mới đến. Nó yên. Đêm nó ngủ, ngày nó ngồi trên giường của mình, nhìn chăm chăm vào một điểm.
Một tháng sau, người ta chở xe lăn tới. Xe lăn có nhiều, đủ cho tất cả. Kẻ mới đến cũng được xe lăn. Các bà bảo mẫu xốc nách nó, nó đứng dậy. Họ đưa nó đến chỗ xe lăn, đặt nó ngồi vào. Họ định đặt chân nó lên thanh ngang, nó không cho. Họ bỏ thanh ngang đi. Nó đẩy chân lên sàn và lao đi. Nó đẩy đôi chân khoẻ mạnh trên sàn, trượt xe trong hành lang.
Trong cuộc họp lớp thường kỳ cô giáo dưỡng mắng kẻ mới đến. Cô ấy nói những điều ngu ngốc thông thường trong những trường hợp như thế này. Đất nước đã gồng mình ra sao, đã dành cho chúng tôi mẩu bánh mì cuối cùng, vậy mà nó lại vô ơn. Cô chứng minh rằng cô đã đối xử với kẻ mới đến như với một con người: đã gửi cuốn vở của nó cho cha mẹ, vậy mà trong cuốn vở, hoá ra nó bôi nhọ cả tập thể cô nhi viện, mô tả cuộc sống trong cô nhi viện bằng mầu đen, phỉ báng cả đội ngũ giáo viên lẫn nhân viên phục vụ. Cô ta cứ nói mãi. Kẻ mới đến chả nghe gì cả. Khi cô bắt đầu buộc tội nó là vô tình và nhẫn tâm, những lời buộc tội thường dùng trong các trường hợp tương tự, nó dùng chân đẩy bàn và lăn xe ra hành lang.
Từ đó người ta không cho nó viết thêm một lá thư nào nữa. Nó cũng chẳng đòi. Sau giờ học, nó đẩy xe trong hành lang, chơi những quả bóng thổi hàng giờ. Bữa trưa nó thường xuyên đòi ăn thêm. Phải đút cho nó, nên các bảo mẫu không muốn cho nó ăn thêm. Người ta cố gắng giải thích cho nó mọi điều, nhưng vô ích. Nó đẩy xe theo bà bảo mẫu đến khi nào bà ấy đầu hàng mới thôi. Các bảo mẫu định trốn trong phòng tránh sự mè nheo của nó. Nó ngồi ngoài cửa và kêu la. Khi chán phải nghe nó kêu, họ mở cửa và cho nó thêm một đĩa súp hay cháo nữa. Dần dần mọi người cũng quen với nó và luôn cho nó suất đúp để thoát khỏi sự quấy nhiễu của kẻ tật nguyền.
Khi chỉ có một mình, tôi nói chuyện với nó. Phát âm chậm chạp từng từ một, nó nói một câu, nhìn tôi dò hỏi và nghi ngờ. Tôi nhắc lại lời nó. Dần dần nó tin tưởng tôi, và tôi không phải nhắc lại những lời của nó nữa. Chúng tôi nói chuyện bình thường. Tôi hỏi nó, điều gì trong bức thư đó.
– Ruben, tớ nghĩ rất nhiều.
– Tớ biết, cậu nghĩ rất nhiều và viết một bức thư rất hay. Cậu đã viết gì?
– “mẹ con được ăn rất tồi không có xe lăn”.
Cả trang đầu của bức thư đầu tiên trong cuộc đời được vẽ đầy những chữ “m”. To và nhỏ. Nó hi vọng dù chỉ một chữ trong cả trang giấy được nhận ra. Có khi để viết một chữ phải mất mấy trang liền. Cuốn vở dầy chín sáu trang được viết kín đặc.
– Hai chữ đầu là thừa, – tôi cố gắng cãi.
– Tớ đã nghĩ rất lâu.
– Nhưng hai chữ đầu vẫn là thừa. Cậu có thể không đủ chỗ trong cuốn vở.
Nó suy nghĩ. Rồi ngoác miệng cười và phát âm rất chậm, rõ ràng: “Mẹ”.
Bánh nướng
Cô nhi viện, ngôi nhà của trẻ em. Trẻ em được chuẩn bị cho cuộc sống tương lai, cuộc sống người lớn. Ngoài những môn kiến thức chung, trong cô nhi viên còn dạy những kiến thức cơ bản để sinh tồn trong cái thế giới không đơn giản bắt đầu phía ngoài cánh cổng trường học. Các cậu bé được dạy về điện, cưa bằng cưa con, lắp và sửa chữa đồ gỗ, các cô bé được dạy may, đan, nấu ăn. Thật không đơn giản dạy một cậu bé không tay thay giác cắm điện, có vẻ như không thể dạy một bé gái một tay đan lát. Điều đó thật khó. Quả là rất khó. Các thầy cô của chúng tôi đã làm được những việc mà cha mẹ của những đứa trẻ tật nguyền không dám mơ đến.
Tôi nằm trên sàn trong lớp học. Một cô bé bước vào với cái khay trên tay. Một chân giả, nhưng theo thước đo của chúng tôi, những đứa trẻ cô nhi viện, cô bé gần như hoàn toàn lành lặn. Trên khay là những chiếc bánh nướng.
– Bọn con trai đâu? Bọn con gái chúng tôi, – cô bé nói, – đã nướng bánh, họ hứa sẽ tới bếp chỗ chúng tôi để thử.
– Tới rạp chiếu bóng.
– Sao lại tới rạp chiếu bóng?
– Hôm nay họ được đưa đi xem phim, ngày mai đến lượt các bạn. Vì hôm nay các bạn bận học nấu ăn.
– Vậy tại sao họ không nói gì với chúng tôi? Làm gì với chỗ bánh bây giờ?
Cô bé đặt khay lên bàn cô giáo, ngồi xuống ghế, lấy một chiếc bánh trên khay và đưa cho tôi.
Bánh nướng nhân khoai tây và hành. Tôi ăn bánh nướng.
– Rất ngon, – tôi nói, – Bánh của các bạn rất ngon.
Cô bé không nghe thấy tôi nói. Cô đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt.
– Lạ thật, bọn con trai đâu nhỉ?
Đánh nhau
Trong cô nhi viện ít khi đánh nhau. Khi đã đánh nhau, đánh rất ác. Đánh có luật. Không được cắn hay túm tóc, dao và quả đấm sắt bị cấm dùng theo luật của cô nhi viện. Nếu mức độ tàn tật không như nhau, có thể được trả thù. Thời hiệu trả thù không quy định. Tôi biết một thanh niên tự hào kể chuyện anh ta đã đẩy kẻ xúc phạm mình vào ô tô vì một chuyện xảy ra trước đó nửa năm. Cú đẩy không thành, xe ô tô vừa lăn bánh, nạn nhân ngã không mạnh vào xe. Tại cuộc gặp gỡ vào buổi chiều, thủ phạm đã được trắng án. Kẻ đẩy người vào bánh xe chỉ có một tay, còn người bị đẩy có hai tay và một chân. Vậy là trung thực. Không thể có chuyện quyết chiến được. Chàng thanh niên đã trả thù, tức là đã hành động đúng theo luật. Khi nạn nhân xuất viện, hai người thậm chí còn kết bạn với nhau. Họ tôn trọng sức mạnh. Ai cũng có quyền được là kẻ mạnh.
Tôi yêu mùa thu. Mùa thu, những đứa trẻ hạnh phúc, những người được đón về nhà dịp hè, quay trở lại cô nhi viện sau kỳ nghỉ ở gia đình. Mùa thu rất náo nhiệt và vui vẻ, nhiều thức ăn ngon, những câu chuyện thú vị về gia đình, về mùa hè, về bố mẹ. Tôi căm thù mùa xuân. Chưa bao giờ tôi thích mùa xuân. Mùa xuân, những người bạn tốt nhất đều đi nghỉ cả. Mùa xuân, chúng tôi thường hy vọng rằng chính trong mùa xuân này có ai đó trong số những người không được đón về năm ngoái sẽ được đón về nghỉ. Tất cả đều hi vọng, thậm chí cả những đứa có bố mẹ ở rất xa, thậm chí cả những đứa mồ côi. Phần lớn thời gian, bọn trẻ cố gắng chơi ngoài sân, xung quanh cổng cô nhi viện. Không ai nói về điều này, chỉ chờ đợi, chỉ hi vọng. Tôi không hi vọng gì: tôi biết, sẽ chẳng có ai đến đón tôi.
Mùa thu năm ấy Serega trở về buồn bã. Có gì đó thật lạ trong tâm trạng của Serega. Tất nhiên ai cũng buồn chút ít sau kì nghỉ, ai cũng nhớ nhà. Nhưng nỗi buồn cũng giảm bớt khi được gặp bạn bè, những ấn tượng mới, những bài vở mới. Chúng tôi được lên lớp, trưởng thành hơn.
Serega, cậu thanh niên mới lớn không có chân, đến phòng chúng tôi trên xe lăn. Cậu muốn xin lời khuyên của các “cậu bé”. Cậu nói chuyện chủ yếu với Genka.
– Chúng tớ đã hẹn quyết chiến.
– Sergey, cậu là người khoẻ nhất cô nhi viện. Ai cũng biết điều đó. Ai dám đánh nhau với cậu?
– Vấn đề là không phải trong cô nhi viện mà là ngoài kia, ngoài tự do.
– Vì sao đánh nhau?
– Vì đàn bà. Chúng nói rằng sẽ cho tớ đi đời. Một ngày trước khi tớ quay về cô nhi viện.
Chúng nói rằng sang xuân tớ mà xuất hiện chúng sẽ giết tớ.
Ai cũng biết bên ngoài tự do có một cô gái chờ đợi Serega. Một cô gái khoẻ mạnh. Một cô gái không khuyết tật, xinh đẹp. Bọn con gái cô nhi viện thậm chí không thử tán tỉnh cậu. Họ biết rằng khi Serega tốt nghiệp, cậu sẽ cưới cô gái của mình.
Genka không hỏi về đàn bà. Không nên. Nếu muốn, tự nó sẽ kể. Không muốn, đó là việc riêng của nó.
– Tớ không biết phải khuyên cậu thế nào. Tớ chưa bao giờ được ra ngoài tự do. Thằng đó khoẻ không?
– Tất nhiên. Lớn hơn tớ một tuổi, học trung cấp kỹ thuật.
– Thế thì cậu tiêu rồi. Nó sẽ giết cậu. Sẽ đá cậu đến chết thì thôi.
– Tớ cũng biết vậy. Nhưng vẫn phải quyết chiến.
Genka suy nghĩ. Trong cô nhi viện không có ai thông minh bằng Genka. Genka cũng biết điều đó. Đây là cô nhi viện. Rất khó che dấu sự thật. Mọi người đều biết hết về nhau. Chúng tôi biết ai khoẻ nhất, cô gái xinh đẹp nhất học ở lớp nào.
– Này Serega, tớ nghĩ cậu vẫn còn có cơ hội. Phải đốn ngã nó. Nếu nó ngã, hãy lao tới bóp cổ nó. Nó có nhiều hơn cậu hai chân, nó khoẻ hơn. Cậu chẳng còn cách nào khác.
Tự Serega cũng biết rằng chẳng có cách nào khác. Kể từ hôm đó cậu bắt đầu “luyện tập”. Năm đó ai ai cũng “luyện tập”. Xà đơn được dựng trong sân trường, chú thợ điện cùng với thầy giáo thể dục đã tự chế tạo vài thiết bị thô sơ từ thép ống. Các cuộc rượu ít hẳn đi. Thầy cô sung sướng: hầu như toàn bộ thời gian rỗi bọn trẻ đều ở trong sân trường. Serega, một người có uy tín, đã bỏ thuốc; những người khác có ý định tập luyện cũng bỏ thuốc theo. Tuy nhiên sau đó nhiều người hút lại. Serega thì không.
Đều đặn. Một tiếng buổi sáng, hai tiếng buổi chiều, bốn tiếng vào thứ bảy và chủ nhật. Suốt năm học, cả cô nhi viện “luyện tập”.
Những người thiếu một tay rèn luyện cơ bắp bằng cánh tay duy nhất. Họ bỗng dưng lại mang tay giả. Những cánh tay giả vô nghĩa bằng nhựa trở nên hết sức cần thiết. Khi luyện tập, họ đổ chì vào tay giả để lưng không bị nhấc lên, cột sống không lệch về phía tay lành lặn. Hơn nữa bản thân cánh tay giả trở thành một thứ vũ khí không thể thiếu trong ẩu đả.
Trong cô nhi viện có một thanh niên cụt tay. Cậu ta không hề có tay. Những người chỉ thiếu bàn tay có thể tập luyện phần tay cụt nếu đeo tay giả. Cậu này không thể mang tay giả. Tay giả của cậu giống như một thứ đồ chơi vô nghĩa, và cậu tuyệt nhiên không đeo chúng. Cậu ta “tập luyện” nhiều nhất, thậm chí nhiều hơn cả Serega. Cậu ngồi trên ghế thấp, đút chân vào gầm tủ và ngả người về phía sau, gáy chạm sàn. Lúc nào cũng thấy cậu “rèn luyện”. Thậm chí cả khi làm bài tập về nhà. Cậu đọc thơ, nhắc lại bài mới học đồng thời tập luyện, cậu nói rằng như vậy dễ nhớ hơn. Chiều chiều cậu miệt mài đá gót chân vào tập báo treo trên tường. Nhảy lên, đá gót chân vào tờ báo, nhảy lùi lại và lại đá tiếp. Mỗi ngày cậu tự hào dùng răng xé một tờ trong xấp báo. Một lần, khi tập báo trên tường mỏng đi rõ rệt, trong lúc luyện tập vữa tường bong ra, xếp báo tuột khỏi đinh. Cậu ta vẫn tiếp tục hăng say đá gót chân vào những viên gạch trần. Những người lớn tới, sơn lại tường, họ không mắng cậu ấy, hiểu rằng cậu không cố ý làm vậy. Họ vừa cười vừa khuyên cậu nên luyện tập trên tường bê tông của ga ra để xe. Chàng thanh niên không tay thức dậy sớm hơn tất cả, bước ra đường và đá vào bức tường bê tông vô tội. Giờ đây cậu có thể luyện tập cả vào buổi sáng mà không làm kinh động giấc ngủ của người khác. Một chàng trai mạnh mẽ.
Serega có tay. Cậu ấy có thể luyện tập một cách bình thường. Chỉ có điều khi nâng xà đơn, cậu đeo ba lô sau lưng. Đầu tiên ba lô chỉ nặng đủ để bù cho trọng lượng của đôi chân bị thiếu, sau đó Serega bắt đầu bỏ tạ vào ba lô. Nhưng ngay cả khi đeo chiếc ba lô nặng sau lưng cậu ấy vẫn có thể nâng được hơn bốn mươi cái trong một lần.
Ý tưởng đeo ba lô khiến thầy giáo thể dục thích thú. Thầy cũng đeo ba lô đến luyện tập. Nhiệm vụ của giáo viên thể dục bao gồm cả việc cùng tập thể dục buổi sáng với bọn trẻ – đằng nào thì cũng chẳng có đứa nào đến lớp trong giờ thể dục. Năm đó thầy giáo thể dục trở thành thầy giáo quan trọng nhất trong trường, quan trọng hơn cả thầy dạy toán. Thầy giúp đỡ các chàng trai rất nhiều, tự nghĩ ra các máy tập cho người khuyết tật. Để bọn trẻ không tập quá sức, thầy giảng cả những bài dài về giải phẫu học. Một thầy giáo tốt.
Niềm tự hào của Serega là tấm đẩy. Tấm đẩy là tấm ván nhỏ có tay cầm mà mhững người tàn tật không chân dùng để đẩy trên mặt đất, di chuyển trên những chiếc xe lăn thấp có vòng bi. Trong giờ lao động, Serega tự mình hàn những tấm đẩy từ nhôm ống. Những tấm đẩy nhẹ bằng nhôm có đế cao su không bền. Chiều chiều Serega đốt một đống lửa nhỏ trên sân trường, nung chì và đổ từng ít một vào tấm đẩy của mình. Tấm đẩy ngày một nặng hơn. Cậu sử dụng chúng như những tấm đẩy thông thường. Như thường lệ, cậu chạy xe lăn trong khu vực cô nhi viện, chỉ có điều giờ đây lúc nào cậu cũng có tạ đôi bên mình. Đến mùa xuân thì mỗt tấm đẩy đã nặng đúng năm ki lô gam. Serega quyết định dừng lại ở năm ki lô gam.
Nghỉ hè, mọi người lặng lẽ tiễn Serega. Sau những tháng mùa đông tập luyện, chúng tôi thấy Serega khoẻ lên rất nhiều, nhưng điều này tuyệt nhiên chẳng nghĩa lý gì hết. Mỗi khi Serega đạt được một thành tích nào đó, chúng tôi hiểu rằng điều đó vẫn còn là ít, quá ít. Serega tập luyện mỗi ngày, nhưng cũng rõ như ban ngày rằng ở một nơi nào đó, trong thành phố của cậu ấy, kẻ thù cũng đang luyện tập, rèn luyện mọi cơ bắp trên thân thể lành lặn của mình. Khi Serega lần đầu có thể nâng năm mươi lần xà, chúng tôi chắc rằng đối thủ của cậu ấy phải nâng được ít nhất là một trăm cái. Serega cử tạ bằng tay trái được tám lần, đối thủ của cậu ấy phải cử được hai mươi lần.
Mùa hè trôi qua nhanh chóng. Thêm một mùa hè cô nhi viện nữa. Mùa thu, như thường lệ, phụ huynh đưa con trở lại cô nhi viện. Cả Serega cũng được đưa tới. Chẳng ai hỏi han gì về cuộc quyết chiến, Serega cũng không kể gì. Chỉ có một lần, khi Serega lại đến với các “cậu bé”, Genka có hỏi cậu ấy, chỉ bóng gió thôi. Chêm vào điều gì đó về kì nghỉ hè. Serega hiểu ngay, lúng túng cụp mắt. Cậu thật không tiện từ chối Genka.
– Không có cuộc ẩu đả nào hết, – Serega khẽ nói. – Không hề có. Buổi tối đầu tiên khi tớ về đến nhà, tớ đã gặp thằng đó. Nó đứng với một thằng nữa, bọn chúng đang hút thuốc. Tở hỏi nó có nhớ tớ không, nó trả lời có nhớ. Lúc đó tớ dùng tấm đẩy đánh thật lực vào đầu gối nó. Chân nó gãy ngay, chòi ra đằng sau. Nó ngã quỵ. Nó gào to, gọi mẹ. Tớ thụi mấy cái liền vào bụng. Nó rên lên. Tớ quay sang thằng bạn nó, nghĩ rằng đành phải một chọi hai, nhưng thằng bạn đã chạy đi gọi người lớn. Đồ mách lẻo. Mọi người chạy đến, gọi bác sỹ. Họ hỏi tớ đánh nó bằng gì, tớ đáp bằng tay. Họ làm toáng lên. Trong túi nó quả là có một con dao.
– Rồi sau đó?
– Sau đó chẳng sao cả. Bố nó đến nhà tớ. Họ ngồi uống rượu với nhau. Tớ thành thực kể hết cho bố nó. Rồi sau đó tớ và nó làm quen với nhau. Một thanh niên được, chỉ có điều yếu ớt.
Nó phải chống nạng suốt cả mùa hè. Thật kì lạ, tớ rủ nó đi câu cá, vậy mà nó trả lời là bị cấm đi xa bằng nạng. Cả bố mẹ nó cũng thật lạ. Tớ cố gắng giải thích với họ rằng trong cô nhi viện hơn một nửa phải chống nạng, họ không hiểu. Mùa hè đó câu cá thật tuyệt. Tớ câu được một con cá măng. Một mùa thu hoạch.
Buổi chiều các thanh niên tranh cãi rất lâu. Họ không thể nào hiểu được tại sao cậu thanh niên què chân đó không đánh nhau, cậu ta vẫn còn có những hai tay, một chân lành lặn, lại có cả dao trong túi. Một thanh niên kỳ lạ, cả bạn cậu ta cũng thật kì lạ.