Phân biệt neurosis, psychosis, psychopathy, psychopathology, psyche, v.v.

Tóm tắt một số thuật ngữ tâm lý học, chủ yếu bắt đầu bằng chữ Psy, để dễ phân biệt.

Psyche là toàn bộ các quá trình tâm trí (Mind), bao gồm cả vô thức và có ý thức. Tiếng Nga là Психика, tiếng Trung là Tâm linh (心靈).Tiếng Việt được dịch là Tâm thần, nhưng từ này trong tiếng Việt là đa nghĩa và mang sắc thái tiêu cực, do đó có thể sử dụng từ Tâm trí. Cũng có khi được dịch là Tinh thần, thì lại lẫn với Spirit. Trong tiếng Anh, từ Psyche và Mind có lúc được coi là tương đương, còn có lúc thì Psyche được hiểu ở nghĩa rộng hơn so với Mind – khi đó Psyche bao gồm cả vô thức, còn Mind thì không.

Psychology có hai nghĩa. Nghĩa đầu là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, nghĩa thứ hai tương đương với Psyche khi nói về một người hay nhóm người cụ thể (ví dụ, her psychology is not stable). Trong tiếng Việt, nghĩa đầu tương đương từ Tâm lý học, nghĩa sau tương đương Tâm lý (ví dụ, tâm lý của cô ta không ổn định). Trong tiếng Nga, nghĩa đầu dùng từ Психология, còn nghĩa sau lại dùng từ Психика (Psyche). Tiếng Trung nghĩa đầu cũng là Tâm lý học (心理学).

Psychiatry là một khoa trong y tế chuyên điều trị các chứng bệnh liên quan đến Psyche. Tiếng Việt là Tâm thần học hoặc Khoa tâm thần. Tiếng Nga: психиатрия. Tiếng Trung: Tinh thần bệnh học (精神病学)

Psychopathology là ngành khoa học nghiên cứu về các rối loạn liên quan đến tâm thần (Psyche). Tiếng Việt là Tâm bệnh học, Tâm lý bệnh học. Tiếng Nga: Психопатология, tiếng Trung: Tinh thần bệnh lý học (精神病理學). Như vậy có thể hiểu sự khác biệt của Psychiatry và Psychopathology là ở chỗ, một đằng là chữa bệnh theo các nguyên tắc và phương pháp của y học, và một là ngành khoa học nghiên cứu về các bệnh đó.

Neurosis là từ chung dùng để chỉ các chứng (condition) rối loạn thần kinh nhẹ (hệ thần kinh bị ảnh hưởng), nhưng hiện đã không còn được sử dụng chính thức. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hầu như bất cứ ai cũng mắc chứng này. Tiếng Việt là Loạn thần kinh, Loạn thần kinh chức năng. Tiếng Nga là Невроз, tiếng Trung là Thần kinh chứng (神经症). Có thể dịch ra tiếng Việt là ‘chứng bất ổn tâm lý’.

Neuroticism là một kiểu nhân cách cơ bản trong mô hình Big Five, là một trong 5 tiêu chí của Big Five. Người có điểm số cao cho tiêu chí này là người có xu hướng có cảm xúc tiêu cực. Tiếng Việt được dịch là Bất ổn cảm xúc hoặc Nhạy cảm (từ này dễ gây hiểu nhầm). Tiếng Nga là Невротизм, tiếng Trung là Thần kinh chất (神经质)

Psychosis là bệnh của tâm trí khiến người bệnh mất kết nối với thực tại, không phân biệt được cái gì có thật và cái gì không, tức là bị ảo giác hay hoang tưởng, dẫn đến rối loạn hành vi. Các chứng bệnh này nặng hơn so với Neurosis (thực sự là bệnh phải điều trị). Tiếng Việt là Loạn thần, Rối loạn tâm thần. Tiếng Nga là Психоз, tiếng Trung là Tư giác thất điều (思覺失調). Người mắc bệnh này gọi chung là Psychotic.

Psychopathy là một chứng khiến người ta có hành vi chống đối những người khác, không có khả năng đồng cảm và hối hận, vô đạo đức và lương tâm, tức là một dạng nhân cách bị bóp méo. Từ đồng nghĩa là Sociopathy, tuy đôi khi Psychopathy được cho là hoàn toàn vô lương tâm, còn Sociopathy thì có đôi chút.  Tiếng Việt là Biến thái nhân cách (thái = tình trạng, tình trạng nhân cách bị biến đổi. Đôi khi thấy có người dịch là Thái nhân cách, bỏ đi chữ ‘biến’, ko rõ vì sao). Tiếng Nga là Психопатия (một loại triệu chứng). Tiếng Trung là Tâm lý bệnh thái (心理病态). Tính từ: Psychopathic. Người bị chứng này tiếng Anh gọi là Psychopath hay Psycho, tiếng Nga là Психопат hay Псих, tiếng Việt: kẻ điên, kẻ tâm thần.

Psychic là Nhà ngoại cảm.

Leave a Reply