Category Archives: Tâm lý học

Các bài liên quan đến tâm lý học, hỗ trợ tâm lý

Cách hiệu quả để làm hỏng nhân viên

Có một người thích yên tĩnh dọn đến ở một nơi rất vừa ý. Nhưng rồi một ngày người ta xây trường học ở gần đó. Ngày ngày bọn trẻ tan trường đi ngang qua nhà anh ta, vừa đi vừa đá lon, gõ thùng rác ầm ĩ. Người kia khuyên hay dọa thế nào tụi nhỏ cũng không nghe.

Anh ta nghĩ ra một kế, bèn gọi bọn nhóc lại và bảo, chú cho mỗi đứa 1$ / ngày, chúng mày đi dọc phố và khua ầm ĩ lên. Sau một tuần, lại bảo, tình hình làm ăn khó khăn, giờ chỉ trả 50 xu thôi. Bọn trẻ không vui nhưng vẫn nhận lời. Tuần sau anh ta đề nghị giảm còn 20 xu, bọn nhóc tự ái, từ chối không chịu làm ồn nữa. Thế là anh ta lại được yên tĩnh.

Có thể câu chuyện hư cấu, nhưng đúng về mặt tâm lý. Việc được trả tiền đủ lâu sẽ khiến người ta vô thức đánh giá về giá trị công sức của mình, và sẽ cảm thấy bị thấp kém nếu làm việc đó mà không nhận được phần thưởng nữa. Động lực bên ngoài đã triệt tiêu mất động lực tự thân, hành vi biểu đạt biến thành hành vi có mục đích.

Mặc dù không cố ý, nhưng các lãnh đạo hay khiến những câu chuyện giống như vậy xảy ra trong tổ chức của mình. Nếu được trả tiền để tổ chức vui chơi, thì rồi khi hết tiền người ta sẽ không tổ chức nữa. Nếu được thưởng để đi học hay đi hội thảo, thì khi người ta sẽ bỏ khi không còn thưởng. Khi đó, sẽ phải mất nhiều thời gian để khôi phục lại tính tự phát. Một lý do cho sai lầm trên là các lãnh đạo sốt ruột và muốn có kết quả nhiều và ngay. Đưa phần thưởng ra là số nhân viên đi học tăng vọt, số đề xuất cải tiến tăng vọt, để rồi được một vài năm thì mọi thứ còn trở nên tệ hơn trước. Vì vậy, cách bền vững hơn (nhưng mất công hơn) là xây dựng môi trường động lực tự phát, thay vì các loại phong trào rùm beng, chóng bùng lên nhưng cũng chóng lụi tàn.

PS. Trong sách Động lực và Nhân cách, Maslow có viết một chương (Ch10) về thành phần biểu đạt của hành vi.

12 dấu hiệu của người trưởng thành, theo góc nhìn trị liệu tâm lý

Như chúng ta đã biết, việc trở thành người lớn không phải là đủ 18 tuổi, hay được phép lái ô tô và uống rượu, hay được vay ngân hàng và sinh con. Sự trưởng thành xứng đáng với tên gọi là một quá trình nội tại, có thể diễn ra nhiều năm sau khi được công nhận là trưởng thành về danh nghĩa. Chúng ta có thể đã 92 tuổi và vẫn đang chầm chậm đi qua giai đoạn vị thành niên. Nếu sống đến 450 tuổi, nhiều người trong chúng ta vẫn phải vật lộn để có được những yếu tố cơ bản của một trí tuệ trưởng thành.

Có một định nghĩa về sự trưởng thành đáng chú ý: sự trưởng thành theo quan điểm của trị liệu tâm lý. Đó là định nghĩa về việc một người đã tìm ra con đường đi từ ấu thơ tâm lý đến trưởng thành tâm lý.

Continue reading

Review sách “Tự nghiệm “ (Self-Analysis)

Đây là một quyển sách rất hay (ra mắt 1942) về việc tự phân tích tâm lý bằng các kỹ thuật của phân tâm học, mà đáng kể là liên tưởng tự do (free association), để dẫn đến việc đạt được sự thấu hiểu (insight) về bản thân. Trong các sách về phân tâm học mà tôi đã đọc, thì tôi thấy Horney viết dễ hiểu nhất, có cấu trúc nhất, khác với những tác giả trước bà như Freud, Jung hay Rank. Khái niệm ‘liên tưởng tự do’ được bà giải thích rất mạch lạc.

Continue reading

Phân biệt neurosis, psychosis, psychopathy, psychopathology, psyche, v.v.

Tóm tắt một số thuật ngữ tâm lý học, chủ yếu bắt đầu bằng chữ Psy, để dễ phân biệt.

Psyche là toàn bộ các quá trình tâm trí (Mind), bao gồm cả vô thức và có ý thức. Tiếng Nga là Психика, tiếng Trung là Tâm linh (心靈).Tiếng Việt được dịch là Tâm thần, nhưng từ này trong tiếng Việt là đa nghĩa và mang sắc thái tiêu cực, do đó có thể sử dụng từ Tâm trí. Trong tiếng Anh, từ Psyche và Mind có lúc được coi là tương đương, còn có lúc thì Psyche được hiểu ở nghĩa rộng hơn so với Mind – khi đó Psyche bao gồm cả vô thức, còn Mind thì không.

Psychology có hai nghĩa. Nghĩa đầu là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, nghĩa thứ hai tương đương với Psyche khi nói về một người hay nhóm người cụ thể (ví dụ, her psychology is not stable). Trong tiếng Việt, nghĩa đầu tương đương từ Tâm lý học, nghĩa sau tương đương Tâm lý (ví dụ, tâm lý của cô ta không ổn định). Trong tiếng Nga, nghĩa đầu dùng từ Психология, còn nghĩa sau lại dùng từ Психика (Psyche). Tiếng Trung nghĩa đầu cũng là Tâm lý học (心理学).

Psychiatry là một khoa trong y tế chuyên điều trị các chứng bệnh liên quan đến Psyche. Tiếng Việt là Tâm thần học hoặc Khoa tâm thần. Tiếng Nga: психиатрия. Tiếng Trung: Tinh thần bệnh học (精神病学)

Psychopathology là ngành khoa học nghiên cứu về các rối loạn liên quan đến tâm thần (Psyche). Tiếng Việt là Tâm bệnh học, Tâm lý bệnh học. Tiếng Nga: Психопатология, tiếng Trung: Tinh thần bệnh lý học (精神病理學). Như vậy có thể hiểu sự khác biệt của Psychiatry và Psychopathology là ở chỗ, một đằng là chữa bệnh theo các nguyên tắc và phương pháp của y học, và một là ngành khoa học nghiên cứu về các bệnh đó.

Neurosis là từ chung dùng để chỉ các chứng (condition) rối loạn thần kinh nhẹ (hệ thần kinh bị ảnh hưởng), nhưng hiện đã không còn được sử dụng chính thức. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hầu như bất cứ ai cũng mắc chứng này. Tiếng Việt là Loạn thần kinh, Loạn thần kinh chức năng. Tiếng Nga là Невроз, tiếng Trung là Thần kinh chứng (神经症)

Neuroticism là một kiểu nhân cách cơ bản trong mô hình Big Five, là một trong 5 tiêu chí của Big Five. Người có điểm số cao cho tiêu chí này là người có xu hướng có cảm xúc tiêu cực. Tiếng Việt được dịch là Bất ổn cảm xúc hoặc Nhạy cảm (từ này dễ gây hiểu nhầm). Tiếng Nga là Невротизм, tiếng Trung là Thần kinh chất (神经质)

Psychosis là bệnh của tâm trí khiến người bệnh mất kết nối với thực tại, không phân biệt được cái gì có thật và cái gì không, tức là bị ảo giác hay hoang tưởng, dẫn đến rối loạn hành vi. Các chứng bệnh này nặng hơn so với Neurosis (thực sự là bệnh phải điều trị). Tiếng Việt là Loạn thần, Rối loạn tâm thần. Tiếng Nga là Психоз, tiếng Trung là Tư giác thất điều (思覺失調). Người mắc bệnh này gọi chung là Psychotic.

Psychopathy là một chứng khiến người ta có hành vi chống đối những người khác, không có khả năng đồng cảm và hối hận, vô đạo đức và lương tâm, tức là một dạng nhân cách bị bóp méo. Từ đồng nghĩa là Sociopathy, tuy đôi khi Psychopathy được cho là hoàn toàn vô lương tâm, còn Sociopathy thì có đôi chút.  Tiếng Việt là Biến thái nhân cách (thái = tình trạng, tình trạng nhân cách bị biến đổi. Đôi khi thấy có người dịch là Thái nhân cách, bỏ đi chữ ‘biến’, ko rõ vì sao). Tiếng Nga là Психопатия (một loại triệu chứng). Tiếng Trung là Tâm lý bệnh thái (心理病态). Tính từ: Psychopathic. Người bị chứng này tiếng Anh gọi là Psychopath hay Psycho, tiếng Nga là Психопат hay Псих, tiếng Việt: kẻ điên, kẻ tâm thần.

Psychic là Nhà ngoại cảm.

Thử giải thích về Tết cổ truyền bằng lý thuyết của Maslow

Theo các nhà nhân học văn hóa, mỗi nghi lễ truyền thống đều có chức năng đáp ứng một số nhu cầu nào đó của cộng đồng, tuy nhiên dần dần cái nhu cầu gốc ấy bị ẩn đi, mọi người chỉ còn nhìn thấy cái hình thức đáp ứng nhu cầu – chính là nghi lễ, và ngầm tin rằng đó chính là nhu cầu.

Continue reading

Carl Rogers. Những suy nghĩ riêng tư về dạy và học

Lời người dịch. Đây là chương 13 trong sách On Becoming a Person của nhà tâm lý học Carl Rogers (tiêu đề bản dịch tiếng Việt là Tiến Trình Thành Nhân). Ông là cha đẻ của liệu pháp lấy thân chủ làm trung tâm (client-centered therapy), và từ đó phát triển ra phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm (student-centered teaching), và tiếp theo là cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm trong mọi giao tiếp.
Bài nói này từ 1952, và bao gồm các suy ngẫm sâu sắc của tác giả về việc dạy và học. Nó đã gây tranh cãi tại thời điểm đó và có lẽ vẫn khiến người đọc ngày nay phải giật mình suy nghĩ lại về những trải nghiệm và cảm nhận của mình, một cách thẳng thắn, tự tin và cầu thị.
Tôi không ưng bản dịch tiếng Việt có sẵn nên đã dịch lại, nhân dịp Ngày Nhà giáo 20/11. Trong bài, các chữ có ý nhấn mạnh là của nguyên tác.

Continue reading

Ý lực (conation) là gì?

Tâm lý học xác định và nghiên cứu ba thành phần của tâm trí (trilogy of mind): nhận thức (cognition), tình cảm (affect) và ý lực (conation – tiếng Trung là 意动 – Ý Động). Nhận thức là quá trình biết và hiểu – mã hóa, lưu trữ, xử lý và truy xuất thông tin. Nó thường được liên kết với câu hỏi “what” (ví dụ: chuyện gì đã xảy ra, chuyện gì đang xảy ra, ý nghĩa của thông tin đó là gì.)

Continue reading