Bài tổng hợp này nhằm mục đích xác định xem bố mẹ có thể vận dụng được gì trong các lý thuyết phát triển nhân cách này để dạy con, sao cho cách dạy phù hợp với sự phát triển của trẻ. Cuối bài có các chỉ dẫn đến các bài viết chi tiết hơn.
Nhân cách (personality, tính cách) là thứ mà mọi người hay nghĩ đến. Khi gặp những người mới, cho dù ở công sở, trường học hay các sự kiện xã hội, ta thường để ý ngay vào tính cách của họ: tốt bụng, tử tế, hướng ngoại hay nhút nhát.
Nên cho trẻ bao nhiêu Thời gian bên màn hình (Screen Time)? Nên hạn chế thời gian nhìn màn hình của trẻ như thế nào? Đó là mối quan tâm hàng đầu của bố mẹ trong thời đại CNTT, mà rất tiếc là vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Bài này giới thiệu các đề xuất của Avi Luxenburg, dựa trên lý thuyết về các giai đoạn phát triển tâm lý xã hội của trẻ (lý thuyết Erikson).
Định nghĩa: thời gian bên màn hình (ST) là thời gian xem các phương tiện truyền thông (media) một cách thụ động (ví dụ TV, phim) và thời gian tương tác với media một cách chủ động (máy tính, trò chơi điện tử, thiết bị di động, v.v.).
Giai đoạn 1 (Lòng tin vs. Ngờ vực, dưới 1 tuổi)
Vì trẻ sơ sinh phụ thuộc 100% vào người chăm, sự phát triển của lòng tin (trust) dựa trên sự tin cậy và chất lượng của người chăm trẻ (bố mẹ hoặc bảo trợ).
Nếu trẻ phát triển thành công lòng tin, nó sẽ cảm thấy an toàn trong cuộc sống. Người chăm không nhất quán, vô cảm hoặc phũ phàng sẽ góp phần làm trẻ phát triển sự ngờ vực. Một khi trẻ không có lòng tin, chúng sẽ sợ hãi và tin rằng thế giới mâu thuẫn và bất định.
ST: không nên có.
Giai đoạn 2 (Tự chủ vs Hổ thẹn, 1-2 tuổi)
Trong giai đoạn này, trẻ cố gắng tách bản thân khỏi bố mẹ và thử nghiệm với chinh mình. Trẻ con không bị gò ép hay đòi hỏi quá sẽ cảm thấy an toàn và tự tin hơn. Trẻ con không có đủ tự do để thử nghiệm với sự tự quản, hay bị đòi hỏi nhiều quá, có khả năng cảm thấy mình không xứng đáng và nghi ngờ bản thân.
ST: Lời khuyên phổ biến là không. Một số cha mẹ cho rằng ST có ích như một phần rất nhỏ trong quá trình học của trẻ. Ví dụ, bố mẹ có thể dạy con nhìn và cảm giác được trứng, đọc truyện có trứng như Humpty Dumpty, và cho trẻ xem video 90 giây về Humply Dumpty. Trong trường hợp này, ST không được sử dụng tách rời, mà là phần nhỏ của một trải nghiệm học tập lớn hơn.
Giai đoạn 3 (Chủ động vs Mặc cảm về khả năng, 3-6 tuổi)
Ở giai đoạn này, trẻ con tỏ ra vô cùng tò mò với thế giới, và “bắt đầu khẳng định quyền lực và sự kiểm soát của chúng đối với môi trường xung quanh thông qua các trò chơi và tương tác xã hội”. Ở tuổi này, trẻ nhỏ thử các loại hành động và nhìn thấy quan hệ nhân quả của các hành động. “Mình đã vẽ tặng mẹ và mẹ thích, mình sẽ làm nữa”. “Mình đã vẽ cho mẹ nhưng mẹ không thích vì mình bôi bẩn hết cả quần, mình sẽ không làm nữa”. Trẻ nhỏ ở giai đoạn này có mặc cảm tội lỗi khi làm gì đó và bị phạt. Nghịch màu và bôi bẩn ra đi văng là một hoạt động trung tính cho đến khi ai đó có phản ứng tiêu cực (và có thể là trừng phạt). Trẻ con vượt qua giai đoạn này một cách thành công sẽ tự tin trong việc hành động, ngược lại là cảm giác có lỗi và tự nghi ngờ, dẫn đến ngại hành động.
ST: Ở giai đoạn này, trẻ nhỏ cần trải nghiệm tối đa với thế giới vật lý, nơi có rất ít ranh giới cho trước đối với hành động của chúng. Không có tỷ lệ, hình thù hay cấu trúc cho trước. Ngay cả những tương tác màn hình phức tạp nhất cũng có hạn chế về hành động và kết quả.
Đây là một ví dụ. Khả năng có thể gõ (type) các chữ cái đã gỡ bỏ rào cản cho nhiều đứa trẻ vì việc viết trở nên dễ dàng hơn (rất tuyệt cho một số người có khuyết tật nào đó). Khi bạn gõ “h”, đó là “h”, và mặc dù bạn có thể chọn nhiều phông chữ khác nhau, thì đó vẫn là những thứ đã được cố định trước. Ở giai đoạn này, có lẽ không có bất kỳ giới hạn nào thì vẫn hơn. Khi viết chữ “h”, một đứa trẻ có thể chọn sáp, bút chì, bút lông hay thậm chí là bằng tay. Nó cũng có thể chọn vô số thứ để viết lên, từ giấy đến bìa hoặc bức tường đẹp đẽ mà mẹ vừa thuê sơn kia. Nó có thể nhấn mạnh hoặc nhẹ, thay đổi góc, v.v.
Điểm mấu chốt là viết chữ “h” thì phong phú và thú vị hơn nhiều so với gõ. Sẽ đến lúc ra muốn tập trung vào nội dung bài viết và khi đó gõ thì hiệu quả hơn, nhưng ở giai đoạn này, tốt hơn là thử nghiệm với tất cả các khả năng thử nghiệm vật lý.
Nếu theo hướng này, ta cần hạn chế nghiêm ngặt ST cho trẻ. Đa số sách cho rằng 30-45 phút mỗi ngày là tối đa. Và cũng như giai đoạn trước, sẽ tốt hơn cho trẻ nếu ST được thực hiện trong ngữ cảnh học tập rộng hơn chứ không chỉ đơn giản là tự thân.
Giai đoạn 4 (Tài năng vs Tự ti, 5-12 tuổi)
“Khi trẻ lớn lên, chúng dần cảm nhận được giá trị của bản thân trong những việc mình làm. Hoàn thành được các việc, nhất là các việc do chúng tự chọn và làm – giúp trẻ thấy tự hào về việc mình làm và mình là ai”
Ở giai đoạn này, trẻ con phát triển cảm giác năng lực qua các thành tựu. Chúng ta muốn trẻ cảm thấy được việc, có năng lực và tự tin vào kỹ năng của bản thân. Các tương tác xã hội cho chúng cảm giác tự hào ban đầu về thành tựu và khả năng của mình.
Một khi cảm giác thành tựu và năng lực là thứ mà trẻ tìm kiếm ở giai đoạn này, thì trải nghiệm phiêu (flow – dòng chảy) là thứ mà chúng rất nên có. Khái niệm phiêu được GS Mihály Csíkszentmihályi đưa ra khi nghiên cứu về việc cái gì khiến chúng ta sung sướng (happy). Ông phát hiện ra rằng chúng ta sung sướng nhất khi phiêu.
Đơn giản nhất, phiêu là khi chúng ta tập trung tối đa đến mức quên thời gian, cảm thấy mình kiểm soát được hoạt động, cảm thấy biết được điều gì sẽ xảy ra và cần làm gì tiếp. Trải nghiệm phiêu là hoạt động học tập và rèn luyện năng lực tốt nhất. Phiêu khiến chúng ta hài lòng và cảm thấy có thể làm tiếp mãi. Không có gì khiến ta cảm thấy thành tựu và năng lực hơn là trải nghiệm phiêu. Xem thêm videos on Flow (and Multitasking).
Mô hình dao động trải nghiệm (Experience Fluctuation Model) theo Csíkszentmihályi. Ví dụ về việc chơi game: khi người chơi có năng lực trung bình thì game đưa ra những thách thức khó hơn, và người chơi ở trạng thái Khuấy động. Khi thành thục, người chơi chuyển sang Dòng chảy (phiêu), rồi chuyển xuống Kiểm soát là khi kỹ năng đã vượt lên thách thức. Thế rồi game đưa ra thách thức khó hơn và người chơi lại về trạng thái Khuấy động, cứ thế xoay vòng đến hết. Tham khảo thêm bài tiếng Việt về mô hình này.
ST:
Ở giai đoạn này, ST rất hấp dẫn với trẻ. Đứa trẻ không hứng thú với viết văn hay làm toán sẽ dễ tìm đến trải nghiệm phiêu thông qua các hoạt động liên quan thiết bị số. Trò chơi điện tử (game) rất dễ tạo ra trải nghiệm phiêu, nên được gọi là “máy tạo phiêu” (flow machine)
Game là máy tạo phiêu
Lúc đầu, người chơi sẽ đương đầu với những thách thức dễ, không đòi hỏi nhiều kỹ năng. Sau đó thách thức tăng dần với kỹ năng, tạo nên một tình huống hoàn hảo để phiêu xuất hiện. Các bước rất rõ ràng khi người chơi tiến bộ dần, và phản hồi luôn là tức thì. Thực tế là rất nhiều game chứa các thành phần của trải nghiệm phiêu. Liệu bạn có còn thắc mắc tại sao chúng lại phổ biến đến thế? Là vì chúng trao cơ hội trải nghiệm phiêu dễ hơn nhiều so với học viết, vẽ, hay nhảy.
Multi-tasking
Càng ngày, chúng ta càng thấy ở trẻ khả năng đa nhiệm (multi-tasking). Rất dễ thấy bọn trẻ vừa xem video vừa làm bài tập về nhà và đồng thời lướt facebook.
Nhưng, nhiều nghiên cứu cho thấy không có cái gọi là đa nhiệm thực sự, tức là khả năng tập trung vào nhiều việc một lúc. Thuật ngữ chính xác hơn là task-juggling (tung hứng việc), tức là trẻ sẽ chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác và ngược lại. Theo Csíkszentmihályi, một người có thể xử lý được 110 bit / giây. Nghĩa là gì? Ví dụ khi bạn nghe và theo dõi tôi, bạn sẽ xử lý nội dung mà tôi nói, xử lý các mối liên kết giữa nội dung đó với tri thức của bạn, ngữ điệu cho bạn biết thêm thông tin về tôi, và cử chỉ của tôi cũng vậy. Tất cả các thông tin đầu vào đó tương tác với hình dung của bạn, với kinh nghiệm của bạn. Nếu bạn tập trung hết cỡ vào nghe và xem, bạn sẽ xử lý khoảng 60 bit thông tin mỗi giây. Đó là lý do tại sao bạn không thể thực sự nghe hai người cùng lúc, vì ngưỡng tối đa là 110 bit.
Khi trẻ con không có đủ thông tin để xử lý, bọn trẻ sẽ tìm cách “làm đầy” bằng cách thêm vào. Đôi khi bạn thấy mình vừa xem phim vừa làm gì đó. Các hoạt động đòi hỏi tập trung cao, ví dụ viết, sẽ không cho phép đa nhiệm (task-juggling). Ví dụ bạn k0 thể viết và trả lời email, hay thậm chí nghe nhạc và cảm nhận được lời. Đa nhiệm không cung cấp đủ chỗ cho trải nghiệm dòng chảy, vì dòng chảy đòi hỏi 100% công suất xử lý thông tin của ta.
Như đã nói, thế giới công nghệ số rất hấp dẫn người trẻ bởi ở đó họ có thể trải nghiệm phiêu dễ hơn và ít phải tập luyện hơn, so với chơi violin chẳng hạn. Sự hấp dẫn này không hẳn là tệ.
Với việc có thể sáng tạo và làm việc trên máy tính và mạng, thời gian sử dụng máy tính (ST) có thể trở thành một công cụ tiềm năng để phát triển cảm nhận năng lực và thành tựu. Chỉ khi ST được sử dụng cho những thứ không sinh lợi (non-productive – vô bổ), ví dụ vào mạng xã hội hàng giờ, hay chơi game, hay lướt web một cách lơ đãng, thì ST mới không có tác dụng cho mục tiêu quan trọng nhất ở giai đoạn này – phát triển tài năng của trẻ.
Xu hướng đa nhiệm cũng như sử dụng ST cho những việc “vô bổ” khiến bố mẹ muốn hạn chế ST của con mình. Đây là vấn đề khó, bởi ở lứa tuổi này bọn trẻ đang khám phá, giải trí và phát triển các mối quan hệ trực tuyến. Chúng muốn nhiều ST hơn. Có lẽ nên giới thiệu cho chúng về phiêu, cái gì khiến chúng vào trạng thái đó và ra. Cũng nên đàm phán với trẻ về ST có ích (productive) và “vô bổ” (non-productive). Có lẽ cũng là lúc xác định khi nào thì được đa nhiệm và khi nào không.
Cũng như ở giai đoạn trước, trẻ rất cần tương tác và hoạt động trong thế giới vật lý. Thế giới trong màn hình không linh hoạt và năng động như thế giới thật, vì các khả năng bị hạn chế bởi các thông số khi lập trình, đóng gói sẵn, và không có sự lộn xộn hay ho như ở thế giới thật. Nhưng mặt khác, thế giới số lại là chỗ tuyệt vời để khám phá những thứ ta không thể trải nghiệm trong thế giới thật, tỷ như giả lập xây dựng một thành phố và xem nó phát triển ra sao sau 1000 năm, hay vẽ tranh mà không tốn phí.
Melton và Shankle khuyến cáo ST hàng ngày cho trẻ ở khúc đầu của giai đoạn này là 45 phút, và khúc sau là 2 giờ. Khi quyết định ST phù hợp, bố mẹ cần cân nhắc theo nhu cầu cá nhân của con trong bối cảnh chúng muốn phát triển năng lực và thành tựu.
Giai đoạn 5 (Cái tôi và Nhầm lẫn về vai trò, 12-19 tuổi)
Các giai đoạn phát triển tâm lý xã hội Erikson (Erikson’s stages of psychosocial development) là một lý thuyết phân tích tâm lý học toàn diện, xác định một chuỗi gồm 8 giai đoạn mà một người phát triển lành mạnh sẽ phải trải qua từ lúc lọt lòng cho đến khi già. Ở mỗi giai đoạn, một người sẽ phải đương đầu, và hy vọng là làm chủ được, những thách thức mới. Mỗi giai đoạn được xây dựng trên cơ sở hoàn thành các giai đoạn trước đó. Những thách thức của giai đoạn trước mà chưa được hoàn thành có thể tái xuất hiện trong tương lai dưới dạng các vấn đề.
Tuy nhiên, không nhất thiết phải làm chủ một giai đoạn để chuyển tiếp sang giai đoạn sau. Kết quả của một giai đoạn là không bất biến và có thể thay đổi bởi những trải nghiệm tiếp sau. Lý thuyết của Erikson khắc họa một cá thể đi qua 8 giai đoạn như quá trình dàn xếp giữa lực sinh học của anh/chị ta và lực văn hóa xã hội ở bên ngoài. Mỗi giai đoạn đặc trưng bởi một khủng hoảng tâm lý xã hội tạo ra bởi hai lực mâu thuẫn đó (xem bảng dưới). Nếu một cá nhân hòa giải thành công hai lực đó, anh/chị ta sẽ ra khỏi giai đoạn đó với đức tính cơ bản (virtue) tương ứng. Ví dụ, nếu đứa trẻ bước sang giai đoạn 2 (tự chủ vs hổ thẹn/nghi ngờ) với sự Tin tưởng nhiều hơn là Hoài nghi, nó sẽ mang theo Hy vọng đến các giai đoạn tiếp theo.
Nguồn: wikipedia (xem cuối bài)
(1) Hy vọng: Tin tưởng vs Ngờ vực
Có phải thế giới này là một nơi an toàn hoặc là nó đầy rẫy những chuyện khó lường và có những tai họa chực chờ xảy ra? Khủng hoảng tâm lý xã hội đầu tiên của Erikson xảy ra trong năm đầu của cuộc sống – khủng hoảng giữa Tin tưởng và Ngờ vực. Trong giai đoạn này, trẻ sơ sinh không chắc về thế giới mà chúng đang sống. Để giải quyết những cảm giác không chắc chắn chúng thường dựa dẫm vào người chăm sóc chính của mình.
Nếu sự chăm sóc mà trẻ sơ sinh nhận được là nhất quán, có thể đoán trước và đáng tin cậy, trẻ sẽ phát triển một cảm giác tin tưởng, thứ sẽ được mang theo đến các mối quan hệ khác, và chúng sẽ có thể cảm thấy an toàn ngay cả khi bị đe dọa.
Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến niềm tin (trust). Bằng cách phát triển cảm giác tin tưởng, trẻ có thể hy vọng rằng ngay cả khi có khủng hoảng mới xảy ra thì vẫn có khả năng sẽ có người giúp đỡ chúng. Không có được niềm tin sẽ dẫn đến sự phát triển của sợ hãi. Ví dụ, nếu sự chăm sóc có khắc nghiệt hoặc không phù hợp, không thể đoán trước hoặc không đáng tin cậy, thì trẻ sẽ phát triển một ý thức không tin tưởng và không có niềm tin vào thế giới xung quanh hoặc mất niềm tin về khả năng ảnh hưởng của mình với mọi thứ xung quanh.
(2) Ý chí: Tự chủ vs. Hổ thẹn / Do dự
Đứa trẻ phát triển về thể chất và di chuyển nhiều hơn. Trong độ tuổi từ 18 tháng đến 3 tuổi. Trẻ bắt đầu khẳng định sự độc lập của chúng, bằng cách bước đi ra xa mẹ, nhặt đồ để chơi, và lựa chọn đồ mặc, đồ ăn, v.v
Đứa trẻ khám phá ra rằng nó có nhiều kỹ năng và khả năng, chẳng hạn như xếp quần áo và giày dép, chơi đồ chơi, v.v. Erikson khẳng định điều quan trọng là cha mẹ cho phép con cái của họ khám phá những giới hạn khả năng của chúng trong một môi trường khích lệ, có thể chịu được thất bại. Ví dụ, thay vì mặc quần áo cho một đứa trẻ, cha mẹ nên kiên nhẫn cho phép đứa trẻ cố gắng thử cho đến khi chúng thành công hoặc yêu cầu trợ giúp. Vì thế, các bậc cha mẹ cần khuyến khích trẻ độc lập hơn đồng thời bảo vệ để chúng không liên tục thất bại.
Họ phải cố gắng không làm tất cả mọi thứ cho trẻ, và nếu các trẻ không thành công ở nhiệm vụ nào đó thì họ không nên trách (đặc biệt là khi luyện tập trẻ đi vệ sinh). Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến ý chí (will). Nếu trẻ trong giai đoạn này được khuyến khích và hỗ trợ để trở nên độc lập, chúng sẽ trở nên tự tin hơn và giữ vững khả năng của mình để tồn tại trong thế giới. Còn nếu trẻ em bị chỉ trích, quá kiểm soát, hoặc không có cơ hội để khẳng định mình, chúng bắt đầu cảm thấy không đủ khả năng để tồn tại, sau đó có thể trở nên quá phụ thuộc vào người khác, thiếu lòng tự tôn, và có cảm giác xấu hổ hay nghi ngờ vào khả năng của mình.
(3) Ý muốn: Chủ động vs Mặc cảm về khả năng
Khoảng 4-5 tuổi, trẻ em khẳng định mình thường xuyên hơn. Đây là giai đoạn đặc biệt sống động, là những năm phát triển cực nhanh trong cuộc sống của một đứa trẻ. Trong thời gian này, điểm quan trọng liên quan đến việc trẻ thường xuyên tương tác với các trẻ khác ở trường. Trọng tâm của giai đoạn này là chơi, vì nó cung cấp cho trẻ những cơ hội khám phá các kỹ năng giao tiếp của chúng thông qua các việc khởi xướng các hoạt động.
Trẻ bắt đầu lên kế hoạch hoạt động, tạo nên trò chơi, và bắt đầu hoạt động với những người khác. Nếu có được cơ hội này, trẻ em phát triển ý thức chủ động, và cảm thấy an toàn về khả năng để dẫn dắt người khác và đưa ra quyết định của mình. Ngược lại, nếu xu hướng này bị chấm dứt, hoặc thông qua những lời chỉ trích hoặc bị kiểm soát, trẻ em sẽ phát triển cảm giác tội lỗi. Chúng có thể cảm thấy bản thân giống như một mối phiền toái cho người khác và vì thế chúng chỉ có thể là người theo sau, thiếu sự chủ động.
Đứa trẻ có những sáng kiến mà các bậc cha mẹ thường cố gắng ngăn cản để bảo vệ chúng. Những đứa trẻ thường sẽ vượt qua những ranh giới bị cấm cản và điều nguy hiểm ở đây là các bậc phụ huynh sẽ có xu hướng trừng phạt và hạn chế các sáng kiến của chúng quá nhiều. Ở giai đoạn này đứa trẻ sẽ bắt đầu hỏi rất nhiều câu hỏi với mong muốn phát triển kiến thức. Nếu cha mẹ coi những câu hỏi của trẻ là tầm thường, là phiền toái hoặc xấu hổ hoặc những hành vi khác của chúng là nguy hiểm thì đứa trẻ có thể có cảm giác tội lỗi và cho rằng chúng “là một mối phiền toái”.
Quá nhiều cảm giác tội lỗi có thể làm cho trẻ chậm tương tác với người khác và có thể ức chế sự sáng tạo của chúng. Một số tội lỗi là tất nhiên cần thiết, nếu không trẻ sẽ không biết làm thế nào để luyện tập quyền tự kiểm soát hoặc có lương tâm. Sự cân bằng lành mạnh giữa chủ động và cảm giác tội lỗi là rất quan trọng. Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến ý muốn (purpose).
(4) Năng lực: Tài năng vs. Tự ti
Trẻ em đang ở giai đoạn này (từ 5-12 tuổi) sẽ được học đọc và viết, học làm toán, làm mọi thứ một mình. Giáo viên bắt đầu có một vai trò quan trọng trong cuộc sống của trẻ khi họ dạy chúng các kỹ năng chuyên biệt. Ở giai đoạn này nhóm bạn của trẻ sẽ có ý nghĩa lớn hơn và sẽ trở thành nguồn chính cho lòng tự tôn của trẻ. Trẻ bây giờ cảm thấy cần phải giành được sự chấp nhận bằng cách chứng minh năng lực cụ thể có giá trị trong xã hội, và bắt đầu xây dựng niềm tự hào về những thành tích của chúng.
Nếu trẻ em được khuyến khích và củng cố cho các sáng kiến của mình, chúng bắt đầu cảm thấy cần cù và cảm thấy tự tin vào khả năng của mình để đạt được mục tiêu. Nếu sáng kiến này không được khuyến khích, nếu nó bị hạn chế bởi cha mẹ hoặc giáo viên, thì trẻ bắt đầu cảm thấy thua kém hơn, nghi ngờ khả năng của mình và vì vậy có thể không đạt tới tiềm năng.
Nếu trẻ không thể phát triển các kỹ năng đặc biệt mà chúng cảm thấy xã hội đang cần, về sau chúng có thể phát triển theo chiều hướng tự ti. Một số thất bại có thể là cần thiết để trẻ có thể phát triển theo chiều hướng khiêm tốn. Tuy nhiên, một lần nữa, sự cân bằng giữa năng lực và sự khiêm tốn là cần thiết. Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến năng lực (competence).
(5) Trung thực: Bản ngã vs Nhầm lẫn vai trò
Trong giai đoạn vị thành niên (tuổi từ 13 đến 19 tuổi), quan trọng nhất là sự chuyển đổi từ trẻ con sang trưởng thành. Trẻ trở nên độc lập hơn, và bắt đầu nhìn vào tương lai dưới dạng sự nghiệp, các mối quan hệ, gia đình, nhà ở, v.v. Cá thể này muốn là một thành phần của xã hội và hòa nhập vào đó.
Đây là một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển, trẻ phải tìm hiểu những vai trò mà chúng sẽ chiếm giữ như một người lớn. Đó là giai đoạn các thanh thiếu niên sẽ xem xét lại bản dạng của mình và cố gắng tìm ra mình là ai. Erikson cho rằng có hai bản dạng liên quan tới giai đoạn này là giới tính và nghề nghiệp.
Erikson tuyên bố rằng người vị thành niên có thể cảm thấy khó chịu về cơ thể của họ trong một thời gian cho đến khi họ có thể thích ứng và “hòa nhập” với những thay đổi. Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến trung thực (fidelity).
Lòng trung thực có liên quan đến việc một người có thể hoàn toàn chấp nhận người khác, ngay cả khi có những sự khác biệt về hệ tư tưởng.
Trong khoảng thời gian này, họ tìm hiểu và bắt đầu hình thành bản sắc riêng của họ dựa trên các kết quả của các cuộc khám phá. Thất bại trong việc thiết lập một ý thức về bản sắc trong xã hội (“Tôi không biết mình muốn gì khi lớn lên”) có thể dẫn đến nhầm lẫn vai trò. Nhầm lẫn vai trò liên quan đến các cá nhân không được chắc chắn về bản thân hoặc vị trí của mình trong xã hội.
Để giải quyết vấn đề nhầm lẫn vai trò hoặc khủng hoảng bản dạng, một người vị thành niên có thể trải nghiệm nhiều lối sống khác nhau (ví dụ: công việc, học tập, hoặc các hoạt động liên quan tới chính trị). Đồng thời, việc tạo áp lực bắt một người chấp nhận một bản dạng có thể gây ra sự phản kháng dưới dạng chấp nhận những bản dạng tiêu cực, cộng thêm cảm giác không hạnh phúc.
(6) Tình yêu: Gắn bó vs Cô lập
Xảy ra ở tuổi thành niên (tuổi từ 18 đến 40 tuổi), chúng ta bắt đầu chia sẻ những điều mật thiết của bản thân hơn với những người khác. Chúng ta khám phá mối quan hệ hướng tới những cam kết lâu dài với một người nào đó hơn là thành viên trong gia đình.
Hoàn thành thành công giai đoạn này có thể dẫn đến các mối quan hệ thoải mái và cảm giác cam kết, an toàn và quan tâm trong một mối quan hệ. Tránh sự thân mật, sợ cam kết và các mối quan hệ có thể dẫn đến sự cô lập, cô đơn, và đôi khi trầm cảm. Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến tình yêu (love).
(7) Sự quan tâm: Chuẩn bị thế hệ sau vs. đình trệ
Trong tuổi trung niên (từ 40-65 tuổi), chúng ta xây dựng sự nghiệp của chính mình, ổn định trong một mối quan hệ, xây dựng gia đình của chúng ta và phát triển ý thức là một phần của bức tranh lớn hơn.
Chúng ta trả lại cho xã hội thông qua việc nuôi nấng đứa trẻ của mình, làm việc hiệu quả, và tham gia vào các hoạt động và tổ chức cộng đồng.
Nếu không đạt được những mục tiêu này, chúng ta trở nên trì trệ và cảm thấy không hiệu quả. Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến lòng quan tâm (care).
(8) Sự khôn ngoan: Viên mãn vs. Tuyệt vọng
Khi trở nên người cao tuổi (65+ tuổi), ta có xu hướng giảm công việc và khám phá cuộc sống của một người nghỉ hưu. Trong khoảng thời gian này chúng ta chiêm ngưỡng thành quả của mình và có thể phát triển sự hài lòng về bản thân nếu chúng ta thấy mình dẫn đầu một cuộc sống thành công.
Erikson tin rằng nếu chúng ta thấy cuộc sống của chính bản thân không hiệu quả, cảm thấy tội lỗi về quá khứ, hoặc cảm thấy rằng chúng ta đã không thực hiện được mục tiêu cuộc sống của chính mình, chúng ta trở nên không hài lòng với cuộc sống và trở nên thất vọng, thường dẫn đến trầm cảm và tuyệt vọng.
Thành công trong giai đoạn này sẽ dẫn đến sự khôn ngoan (wisdom). Sự khôn ngoan cho phép một người nhìn lại cuộc sống của họ với một cảm giác hoàn thành, và chấp nhận cái chết mà không sợ hãi.
Bài sử dụng một số nội dung từ wikipedia và nguồn, độc giả có thể vào tham khảo để nắm thêm chi tiết. Vì không tìm thấy nguồn tiếng Việt đủ tốt nên phải viết bài tổng hợp/ tóm tắt này.