Gonzalez Gallego – Trắng trên Đen (1)

trang tren den

Ruben David Gonzalez Gallego. “Trắng trên Đen”
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga: Phương Hoài, 8-2004
Sách được Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phối hợp với NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 với tựa “Những dải trắng trên nền đen”.

Chỉ có những con chữ, những con chữ trên trần nhà, những con chữ trắng chậm chạp trôi trên nền đen. Chúng xuất hiện vào ban đêm sau một trận lên cơn thường kỳ. Tôi có thể di chuyển những con chữ trên trần nhà, sắp xếp chúng thành từ thành câu. Sáng ra, tôi chỉ còn việc ghi chúng vào máy tính.

Anh hùng

Tôi là một anh hùng. Làm anh hùng thật dễ. Nếu bạn không tay, không chân – bạn hoặc phải làm anh hùng hoặc là chết. Nếu bạn không có cha mẹ – bạn phải trông cậy vào đôi tay và đôi chân của mình. Và hãy trở thành anh hùng. Nếu bạn không có cả chân lẫn tay, thêm vào đó lại còn mồ côi – bạn không còn lối thoát nào hết. Bạn sẽ phải làm anh hùng cho đến cuối đời. Hay là chết. Tôi là một anh hùng. Tôi không còn lối thoát nào khác.

***

Tôi – một thằng bé con. Đêm tối. Mùa đông. Tôi cần đi vệ sinh. Có gọi bảo mẫu cũng vô ích.
Chỉ có một lối thoát – bò tới nhà vệ sinh.

Đầu tiên cần phải tụt khỏi giường. Có một cách, là tôi tự nghĩ ra. Tôi bò đến mép giường và xoay ngửa người, lật nhào xuống sàn. Bịch. Đau đớn.

Tôi bò tới cửa ra hành lang, dùng đầu đẩy cửa rồi bò từ trong căn phòng tương đối ấm ra chỗ lạnh và tối.

Ban đêm tất cả các cửa sổ đều mở. Lạnh, rất lạnh. Tôi trần như nhộng.

Phải bò rất xa. Khi bò ngang qua căn phòng nơi các bảo mẫu đang ngủ, tôi đập đầu vào cửa phòng họ, cố gọi nhờ giúp đỡ. Chẳng có ai trả lời. Tôi la lên. Cũng không có ai. Có thể tôi la quá nhỏ.

Khi bò tới được nhà vệ sinh, tôi hoàn toàn đông cứng lại.
Trong nhà vệ sinh các cửa sổ đều mở, trên bệ cửa sổ là tuyết.
Tôi leo lên bệ xí. Tôi nghỉ ngơi. Tôi nhất định phải nghỉ ngơi trước khi bò ngược lại. Trong lúc tôi nghỉ ngơi, nước tiểu trong bệ xí đã phủ một lớp băng.

Tôi bò về chỗ cũ. Dùng răng lôi chăn trên giường, cuộn qua quýt quanh mình và cố gắng chợp mắt.

Rồi sáng ra người ta mặc quần áo cho tôi và đưa tôi đến trường. Trong giờ lịch sử, tôi hào hứng kể về những điều khủng khiếp trong trại tập trung của Phát xít Đức. Tôi được năm điểm. Tôi luôn được năm điểm môn lịch sử. Tôi luôn được năm điểm trong tất cả các môn. Tôi là anh hùng.

Lưỡi lê

Lưỡi lê là một vật rất tuyệt, hiệu quả. Chỉ một nhát – và đối phương gục ngã. Lưỡi lê xuyên thủng người kẻ thù. Lưỡi lê không bao giờ trượt, lưỡi lê hầu như luôn trúng đích. Viên đạn bay mò mẫm, viên đạn thật xuẩn ngốc. Viên đạn có thể bay sượt qua, viên đạn có thể găm vào cơ thể và gặm nhấm cuộc sống con người từ bên trong một cách đê tiện. Lưỡi lê không phải là viên đạn, lưỡi lê là vũ khí thô sơ, thứ cuối cùng còn sót lại của thế kỷ mười chín.

Trên bìa cuốn sách đầu tiên của Nicolai Ostrovski có dập hình lưỡi lê. Nhà văn mù, bất động, không thể tự đọc được cuốn sách của mình. Tất cả những gì ông có thể là cứ rờ rẫm quanh hình lưỡi lê hết lần này đến lần khác. Lưỡi lê bền nhất trên đời là lưỡi lê làm bằng giấy.

Người Viking thời xưa là những chiến binh tài giỏi nhất thế giới. Những chiến binh dũng cảm, những con người rắn rỏi. Chớ nên vội xoá sổ một chiến binh Viking gục ngã. Một chiến binh Viking gục ngã, với chút lực tàn cuối cùng sẽ dùng răng cắn chân kẻ thù. Một cái chết từ từ, nguyền rủa cuộc sống vô nghĩa, giày vò chính mình và người thân bằng những lời than thở bất tận về số phận không may là kết cục dành cho kẻ yếu ớt. Câu hỏi muôn đời của Hamlet không làm người lính bận tâm trong trận chiến. Sống chiến đấu và chết chiến đấu cũng đều như nhau. Cố tình sống nửa vời và chết nửa vời là điều đáng ghê tởm và thật hèn mạt. Điều lớn nhất mà một người bình thường có thể hy vọng là được chết trong chiến đấu. Nếu gặp may, nếu rất gặp may, con người có thể được chết trong khi bay. Chết khi đang nắm chặt dây cương hay cần lái máy bay tiêm kích, đang cầm mã tấu hay tiểu liên, búa thợ rèn hay quân Vua. Nếu bị chặt một tay trong trận chiến – không sao. Có thể cầm kiếm bằng tay kia. Nếu gục ngã, chưa phải là đã hết. Vẫn còn một cơ hội, một cơ hội mỏng manh – được chết như một chiến binh Viking, dùng răng cắn chặt gót kẻ thù. Không phải ai cũng gặp may. Không phải ai cũng làm được như vậy. Homer và Beethoven là những ngoại lệ may mắn, những cá biệt chỉ càng nhấn mạnh một điều rằng cơ hội là rất không đáng kể. Nhưng phải chiến đấu, không còn cách nào khác, khác đi là không trung thực và xuẩn ngốc.

Tôi đã khóc khi đọc cuốn sách đó. Sách cũng như người, có rất nhiều loại. Nếu suy luận, nếu cố suy luận thì truyện tranh cũng là sách. Những cuốn sách đẹp với những bức tranh đẹp. Như thứ đồ chơi ngộ nghĩnh – con bướm giấy có vòng đời một ngày – truyện tranh có lợi thế rất lớn so với những loại sách khác: trẻ em không khóc khi đọc chúng. Những đứa trẻ vui vẻ chẳng cần phải khóc vì những cuốn sách. Câu hỏi “Tồn tại hay không tồn tại” chẳng hề có ý nghĩa gì với chúng. Chúng chỉ là những đứa trẻ, là những đứa trẻ mà thôi, còn quá sớm để bắt chúng phải suy nghĩ. Tôi đọc cuốn sách, đọc và khóc. Khóc vì bất lực và ghen tị. Tôi muốn đi tới đó, muốn lao vào trận chiến, nhưng tôi không thể chiến đấu được. Tôi không thể làm được bất cứ điều gì, đã quen rồi mà tôi vẫn khóc. Có những cuốn sách làm thay đổi nhãn quan về thế giới, những cuốn sách mà sau khi đọc, người ta muốn được chết hay sống khác.

Nếu bạn muốn tìm hiểu chuyện gì, hãy hỏi người hay sách. Sách cũng là người. Như con người, sách có thể chỉ bảo, như con người, sách có thể nói dối.

Tôi không chỉ đọc sách, tôi muốn biết thế giới được sắp xếp ra sao. Tôi muốn biết tôi phải sống ra sao trong thế giới đó. Tôi đã hỏi người – người không trả lời tôi. Tôi đi tìm câu trả lời trong sách – sách lảng tránh câu trả lời. Những cuốn sách kể chi tiết, quá chi tiết, rằng cần phải sống ra sao nếu bạn có tất cả. Những nhân vật trong sách đau khổ khiến tôi ngạc nhiên. Tôi, một con người bằng xương bằng thịt, không hiểu họ, những nhân vật trong sách, không chấp nhận nổi những đau khổ giấy của họ. Họ cố đau khổ, giống như các giáo viên ở trường. Thầy cô khuyên đọc sách, tôi đã đọc. Tôi đã đọc mọi thứ, những trang sách lê thê chán ngắt mô tả cuộc sống vô nghĩa của những con người yếu đuối và lười nhác. Thầy cô gọi họ là anh hùng – tôi không hiểu, sự anh hùng của họ ở chỗ nào?

D’Artagnan mà là anh hùng ư? Anh hùng gì anh ta nếu như anh ta có đầy đủ cả chân, cả tay? Anh ta có tất cả – tuổi trẻ, sức khoẻ, sắc đẹp, kiếm và biết đấu kiếm. Anh hùng ở chỗ nào? Một người hèn nhát và bội bạc, luôn làm những điều ngu ngốc vì danh tiếng và tiền bạc mà là anh hùng ư? Tôi đọc cuốn sách nhưng không hiểu được lấy một nửa. Tất cả mọi người – cả người lớn và trẻ con – đều cho rằng các chàng ngự lâm là những anh hùng. Tôi không tranh cãi, tranh cãi cũng vô ích. Dù sao tôi cũng không thể noi gương những vị anh hùng này được.

Tôi đọc cuốn sách dày cộp đó mấy lần. Tôi đọc cả phần tiếp theo của câu chuyện nổi tiếng về những chàng ngự lâm dũng cảm. Phần tiếp theo không làm tôi thất vọng. Ngài Coquenard, con người xấu xí bất hạnh, đã làm những điều mà một anh hùng thật sự cần phải làm – chết. Chết, để lại vợ và tiền bạc cho Porthos. Ngài Coquenard không khiến tôi thông cảm. Giá như ông già đáng thương này có đủ sức mạnh và sự khôn khéo để bỏ thuốc độc vào rượu của Porthos, có thể tôi sẽ đứng về phía ông ta. Nhưng làm gì có điều kỳ diệu. Con người tàn phế bất hạnh đã lê lết sống nốt cuộc đời đê nhục của mình, với chiếc xe lăn làm nền cho chiến công của những anh hùng thật sự. Một kẻ tội nghiệp.

Những người khác cũng chẳng hơn gì. Những con người hèn mọn, chỉ đáng để khinh bỉ. Những con côn trùng, chỉ phần nào giống người. Những cái túi rác rưởi, không đáng lên thiên đàng, chẳng đáng xuống địa ngục. Những chiến binh không có khả năng sống cũng như chết. Chỉ vài người trong số họ là còn đáng để tôi kính trọng. Thí dụ Porthos. Tôi thích Porthos hơn Coquenard nhiều. ít ra Porthos đã chết như một con người.

Gwynplaine là một thằng ngốc, đau khổ vì những chuyện ngớ ngẩn. Thử nghĩ mà xem, chỉ vì một khuôn mặt xấu xí. Sirano hành động khôn ngoan hơn một chút. Nếu bạn có đôi tay khoẻ mạnh và thanh kiếm sắc, có thể bù đắp cho sắc đẹp. Thanh kiếm – một lý lẽ không tồi. Nhưng Sirano cũng làm tôi thất vọng. Mạnh mẽ giữa những người đàn ông, anh ta trở thành một kẻ bạc nhược và hay than vãn trước tình yêu.

Tôi ghen tị với Quasimodo. Người ta nhìn anh ta ghê tởm và thương hại, như nhìn tôi. Nhưng anh ta có cả tay và chân. Anh ta có cả Nhà Thờ Đức Bà Pari.

Các anh hùng trong sách không phải là anh hùng hoặc chỉ anh hùng một nửa. Những người ưu tú nhất trong số họ chỉ thỉnh thoảng mới sử xự như những con người, dường như cố tình. Chỉ một vài phút trước khi chết họ mới cho phép bản thân sống thật sự. Chỉ có trước cái chết họ mới làm tôi thích. Chỉ có cái chết xứng đáng mới dung hoà họ với cuộc sống vô nghĩa.
Tôi ít khi khóc khi đọc sách. Tôi có thừa lý do để khóc mà chẳng cần tới sự đau khổ tưởng tượng trong sách. Nhưng cuốn sách này rất hay. Nó không nói dối.

Paven Korchagin cưỡi ngựa và sử dụng kiếm chẳng kém gì các chàng ngự lâm. Paven Korchagin là một chàng trai mạnh mẽ và dũng cảm. Anh chiến đấu vì lý tưởng. Tiền bạc và danh vọng chẳng nghĩa lý gì với anh. Budenovka – một loại mũ ngự lâm thảm hại– không thể bảo vệ anh trước viên đạn đê hèn. Kiếm sắc bất lực trước súng lục. Biết điều đó, nhưng anh vẫn lao vào cuộc chiến. Cứ lao vào hết trận này tới trận khác. Luôn có mặt nơi khói lửa nhất của cuộc chiến. Chiến đấu và chiến thắng, luôn luôn chiến thắng. Bằng vũ khí và lời nói. Khi thân thể mệt nhoài, khi tay không thể cầm nổi kiếm, anh đổi vũ khí, dùng ngòi bút. Anh đã thành công. Người hiệp sĩ cuối cùng của vũ khí thô sơ. Chiến binh Viking cuối cùng của thế kỉ hai mươi.

Con người để lại gì khi gần như không còn là gì nữa? Có gì thanh minh cho sự tồn tại nửa vời của một kẻ dở sống dở chết? Sống để làm gì? Tôi đã không biết và bây giờ vẫn chưa biết. Nhưng giống như Paven Korchagin, tôi không muốn chết trước khi cái chết tới. Tôi sẽ sống đến cùng. Tôi sẽ chiến đấu. Chậm chạp nhấn nút bàn phím máy tính, tôi đặt từng chữ một. Tôi kỹ lưỡng rèn lưỡi lê của mình – cuốn sách. Tôi biết mình chỉ có quyền ra một đòn, sẽ không có cơ hội thứ hai. Tôi gắng sức, gồng mình gắng sức. Tôi biết: lưỡi lê là thứ đáng tin cậy. Lưỡi lê – một vật rất tuyệt, hiệu quả.

Những ước mơ

Khi còn bé tí, tôi mơ về mẹ, mơ đến năm lên sáu tuổi. Sau đó tôi hiểu rằng, chính xác hơn là tôi được giải thích rằng, mẹ tôi là một con đĩ nhọ, đã bỏ rơi tôi. Tôi không thích viết điều này, nhưng tôi đã được giải thích bằng chính những từ này.

Những người đã giải thích cho tôi là những người lớn và khoẻ mạnh, họ đúng trong mọi chuyện, do đó họ cũng đúng trong chuyện nhỏ này. Tất nhiên còn có cả những người lớn khác.

Họ là thầy cô. Họ kể cho tôi nghe về những đất nước xa xôi, về các đại văn hào, kể rằng cuộc sống rất tuyệt vời và mỗi người sẽ tìm ra chỗ đứng cho mình trong cuộc đời, chỉ cần học thật giỏi và nghe lời người lớn. Họ luôn dối trá. Dối trá trong mọi chuyện. Họ kể về những ngôi sao và các châu lục, nhưng không cho phép bước ra khỏi cổng cô nhi viện. Họ nói về sự bình đẳng của tất cả mọi người, nhưng chỉ đưa những đứa trẻ biết đi tới rạp xiếc.

Chỉ có các bảo mẫu là không nói dối. “Bảo mẫu” – một từ thật dịu dàng. Ngay lập tức khiến ta nhớ tới bà bảo mẫu của Puskin. Những bà cô nông dân bình thường. Họ không bao giờ nói dối. Thỉnh thoảng họ còn cho chúng tôi ăn kẹo. Có lúc họ độc ác, có lúc họ tốt bụng, nhưng họ luôn thẳng thắn và chân thành. Qua những lời của họ ta thường có thể hiểu được bản chất sự việc, trong khi không thể nhận được câu trả lời rõ ràng của các thầy cô. Khi cho kẹo, họ nói: “Thằng bé tội nghiệp, giá như mày chết sớm đi để khỏi làm khổ bản thân và bọn ta”. Hay khi mang xác một đứa đã chết ra ngoài, họ nói: “Ơn Chúa, cuối cùng nó cũng hết đau khổ”. Mỗi khi tôi bị cảm nằm lại trong phòng ngủ một mình với một bảo mẫu như vậy và không phải đến trường, bà cô nhân hậu mang đến cho tôi kẹo hay quả ngâm và kể về những đứa trẻ hi sinh ngoài mặt trận, về người chồng nghiện rượu, về nhiều chuyện thú vị khác. Tôi lắng nghe và tin tất cả, như trẻ con tin vào sự thật. Mà có lẽ chỉ có trẻ con tin. Những người lớn thường không thể tin vào điều gì nữa. Và về “con đĩ nhọ”, các bà bảo mẫu kể cho tôi nghe giản dị và tự nhiên như kể về mưa và tuyết.

Lên sáu tuổi, tôi không mơ về mẹ nữa. Tôi mơ mình “đi được”. Hầu như ai cũng đi được. Thậm chí cả những đứa di chuyển khó khăn bằng nạng. Những đứa trẻ biết đi được đối xử tốt hơn nhiều so với chúng tôi. Họ là người. Sau khi rời cô nhi viện, họ có thể trở thành những người có ích cho xã hội – kế toán, thợ đóng giày, thợ may. Có nhiều người được học hành tử tế, “vươn lên thành người”. Sau khi rời khỏi cô nhi viện, họ quay trở lại trường trên những chiếc xeđắt tiền. Lúc đó người ta tập trung chúng tôi trong hội trường lớn, kể chuyện học sinh cũ của trường đang giữ chức vụ quan trọng nào. Từ các câu chuyện cho thấy, những cô chú to béo ấy luôn nghe lời người lớn, học giỏi và có được mọi thứ nhờ vào trí tuệ và sự nhẫn nại của chính mình. Nhưng họ đi được! Tôi cần gì phải nghe những lời huyên thuyên tâng bốc của họ, nếu chính tôi cũng biết cần phải làm gì nếu biết đi? Làm sao để đi được thì chẳng ai nói cả.

Lên tám tuổi, tôi hiểu ra một điều rất đơn giản: tôi chẳng cần cho ai hết. Người lớn và trẻ con chỉ nghĩ về bản thân. Tất nhiên tôi hiểu rằng, ở đâu đó trên một hành tinh khác có tồn tại những bố, mẹ, ông, bà. Nhưng xa vời và thiếu thuyết phục đến mức tôi xếp những điều nhảm nhí đó vào cùng một loại với những vì sao và các châu lục.

Lên chín tuổi, tôi hiểu rằng mình không bao giờ có thể đi được. Điều này thật buồn. Những đất nước xa xôi, những ngôi sao và những niềm vui khác nữa đều khép lại. Chỉ còn cái chết. Dai dẳng và vô nghĩa.

Lên mười tuổi, tôi được đọc về phi đội Thần phong Nhật bản. Những chàng trai dũng cảm mang cái chết đến cho kẻ thù. Chỉ bằng một chuyến bay không hạ cánh, họ đã trả hết món nợ với đất nước vì tất cả số gạo đã ăn, những tã lót dây bẩn, những cuốn vở học sinh, những nụ cười của các cô gái, mặt trời và những ngôi sao, quyền được nhìn thấy mẹ mỗi ngày. Điều này hợp với tôi. Tôi biết, người ta chẳng bao giờ cho tôi lên máy bay. Tôi mơ về một quả ngư lôi. Quả ngư lôi được điều khiển và nhồi đầy thuốc súng. Tôi mơ mình từ từ tiến lại gần tàu sân bay của địch và nhấn nút đỏ.

Từ đó đến nay đã nhiều năm trôi qua. Giờ tôi đã là người lớn và hiểu biết mọi chuyện. Có thể điều này là tốt, mà cũng có thể là không tốt lắm. Tất cả những người hiểu biết thường chán ngắt và mông muội. Tôi không có quyền muốn chết, bởi số phận gia đình phụ thuộc rất nhiều vào tôi. Vợ và các con yêu tôi, và tôi cũng yêu họ rất nhiều. Nhưng đôi khi, nằm thao thức trong bóng tối, tôi vẫn mơ về một quả ngư lôi có nút đỏ. Ước mơ trẻ con ngây thơ đó vẫn ám ảnh tôi, và có lẽ sẽ còn ám ảnh mãi.

Ngày lễ

Hồi ức đầu tiên. Tôi một mình, bé tẹo, nằm trong giường khung. Tôi gào thét. Chẳng có ai lại gần. Tôi gào thét rất lâu. Giường khung – chiếc giường trẻ em bình thường với những thanh chắn cao xung quanh. Tôi nằm ngửa, người đau đớn và ướt sũng. Thành giường bị khăn trải giường trắng dày che kín. Không có ai. Trước mắt tôi là trần nhà trắng toát. Nếu quay đầu cũng chỉ là khăn trải giường trắng. Tôi cứ khóc gào, khóc gào. Người lớn đến theo thời gian biểu. Khi họ đến, họ la mắng tôi, cho ăn, thay tã. Tôi yêu người lớn – họ không yêu tôi. Cứ để cho họ mắng mỏ, cứ để cho họ đặt tôi lên cái đi văng bất tiện có gối đầu. Thây kệ. Tôi chỉ muốn có người tới gần. Khi đó tôi có thể được nhìn thấy những chiếc giường khung khác, bàn ghế và cửa sổ khác. Vậy thôi. Rồi người ta sẽ đặt tôi vào giường khung. Khi họ đặt tôi xuống, tôi sẽ lại gào thét. Người ta mắng tôi. Họ không muốn bế tôi trên tay, còn tôi không muốn nằm vào giường khung. Tôi vẫn nhớ tôi luôn sợ bị bỏ nằm một mình. Người ta thường xuyên bỏ tôi nằm một mình.

Thứ mùi dễ chiụ mà tôi nhớ tới trước tiên là hỗn hợp của mùi rượu nồng nặc và mùi nước hoa. Thỉnh thoảng những người phụ nữ mặc áo choàng trắng tới bế tôi. Họ thận trọng nâng tôi lên, không như mọi khi. Họ gọi đó là “ngày lễ”. Từ họ toả ra mùi rượu thơm ngon. Người ta mang tôi đi, đem vào một căn phòng lớn kê một cái bàn và nhiều ghế. Tôi ngồi trên đùi ai đó. Tôi được các bà các cô chuyền tay nhau. Tôi được ăn những thức ngon lành. Nhưng thích nhất là tôi có thể nhìn thấy tất cả. Mọi thứ xung quanh. Những khuôn mặt người, những chiếc đĩa đẹp đẽ trên bàn, những cái chai và cốc. Mọi người uống rượu, ăn, trò chuyện. Người phụ nữ mà tôi ngồi trên đùi, một tay giữ chắc tôi, tay kia mau lẹ dốc cạn ly rượu rồi lại ăn. Thức ăn có rất nhiều loại, mỗi thứ bà lại bấu một mẩu nhỏ và đút vào mồm tôi. Không ai to tiếng với ai. Thân tình, ấm áp.

***

Trong cô nhi viện có cuộc rượu. Một cuộc rượu thông thường, mọi thứ đều tốt đẹp. Bọn con trai uống vodka và nhấm nháp. Đó là những người lớp trên. Sau giờ học, bọn họ nhanh chóng vào phòng, chui trong góc, cử một người “canh gác”. Họ mở đồ hộp, uống rượu theo vòng tròn bằng một cái cốc, rồi lại ăn.

Họ bỗng phát hiện ra tôi. Tôi nằm dưới gầm giường ở góc đối diện trong phòng. Người chui trong gầm giường. Đầu và vai thò ra ngoài. Trước mặt tôi là cuốn sách. Đọc sách thò chân dưới gầm giường thật tiện. Không ai làm phiền.

– Ruben, bò lại đây.

Tôi bỏ sách, bò lại. Tôi bò chậm chạp, nhưng mọi người vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Tôi bò tới nơi.

– Uống vodka chứ?

Hỏi cho vui. Tất cả đều biết tôi vẫn chưa được phép uống vodka. Sau mười hai tuổi mới được uống vodka.

Tất cả cùng cười. Không ác ý, bọn họ đang vui vẻ.

– Thôi đi Serega, hãy để thằng bé yên. Tốt hơn là hãy cho nó ăn.

Serega, cậu thanh niên cụt chân, làm cho tôi chiếc bánh kẹp – bánh mỳ với giò. Bóc cho tôi một múi tỏi.

Các thanh niên uống nốt chỗ vodka, giấu cái chai không đi. Họ nhấm nháp. Tôi ăn cùng với mọi người. Thoải mái. Ai cũng thoải mái. Ngày lễ. Nếu như không phải ngày lễ, sẽ chẳng có ai để ý đến tôi, đừng nói gì đến chuyện cho tôi ăn cùng. Tôi là kẻ hèn mọn, nhãi con.
Sau vodka là tới chiphir (*). Chiphir được ủ trong những lọ lớn, họ truyền nhau uống chậm rãi. Tôi không được uống chiphir không chỉ vì tôi còn nhỏ – ai cũng biết tôi bị bệnh tim.

Serega lấy chiếc cốc uống vodka, nhanh nhẹn nhảy lò cò ra khỏi phòng trên đôi nạng. Cậu quay lại với một cốc nước gần đầy. Một tay cầm cốc nước, tay kia thận trọng chống xuống sàn. Cậu đặt cốc nước lên sàn, lấy từ trong tủ ra lọ mứt và cái thìa. Đổ một ít chiphir trong lọ vào cốc của tôi, thêm mứt. Cậu múc mứt hào phóng.

– Cầm lấy, – cậu nói, – Ruben. Đây là nước chè ngọt cho cậu.

Các thanh niên uống chiphir, tôi uống chè pha mứt. Thật dễ chịu. Ngày lễ.

(*) chiphir – chè pha thật đặc. ND

Cái ăn

Tôi không thích ăn. Nếu được, tôi muốn những viên thuốc trong chuyện viễn tưởng, uống một viên như thế và no suốt cả ngày. Tôi ăn ít, người ta nài nỉ tôi, đút cho tôi – không ăn thua.

Tôi gặp may là khi còn bé tí, tôi được sống trong một cô nhi viện nhỏ ở vùng nông thôn. Người ta cho ăn rất đầy đủ và ngon, các bảo mẫu tốt bụng luôn theo dõi để mọi trẻ đều ăn, họ quan tâm đến chúng tôi.

Sau đó là những cô nhi viện khác, những bảo mẫu khác, thức ăn khác. Cháo đại mạch, bánh rán có dòi, trứng ung. Cái gì cũng từng có. Nhưng tôi sẽ không viết về điều đó.

Tôi chợt nhận ra rằng những hồi ức đẹp đẽ nhất của tôi đều gắn với cái ăn. Tất cả những giây phút tuyệt vời nhất của thời thơ ấu đều liên quan tới cái ăn, chính xác hơn là với những người đã chia sẻ nó cho tôi, ban tặng nó như biểu hiện của mối thiện cảm. Thật lạ lùng.

***

Tôi không nhớ đó là nơi nào. Tôi chỉ nhớ những người mặc áo choàng trắng. Lũ trẻ chúng tôi rất đông, và tất cả chúng tôi đều bé tẹo.

Người ta mang tới một quả dứa. Thời đó, đối với tôi nó thật to và đẹp. Người ta không cắt nó ra ngay mà để cho chúng tôi ngắm nghía. Hình như người lớn cũng không dám làm hỏng một thứ đẹp như vậy. ở nước Nga, dứa là của hiếm.

Quả dứa làm tất cả mọi người thất vọng. Chính xác hơn là hầu như tất cả. Lũ trẻ nếm thử vị gắt đặc biệt của nó và từ chối ăn những lát dứa rát bỏng đó. Chỉ có tôi ăn. Tôi vẫn nhớ câu chuyện của những người lớn.

– Cho nó ăn thêm đi.
– Chị nói gì thế, chẳng may nó bị làm sao thì sao?
– Em đã đọc hồ sơ của nó chưa? Có khi bố nó cũng ăn dứa mà lớn đấy. Có thể ở nước họ, dứa cũng như khoai tây ở ta.

Người ta cho tôi ăn, ăn nữa. Có lẽ những người lớn thấy thú vị, làm sao thằng bé lạ lùng này có thể ăn cái thứ quả nhiệt đới đó. Mà họ cũng chẳng thể vứt đi ngần ấy của quý. Tôi đã ăn rất nhiều lát dứa. Và không sao hết.

***

Người ta đưa tôi đến cô nhi viện đầu tiên trong đời. Không có những người mặc áo choàng trắng, không giường xếp thành dãy. Nhưng có nhiều trẻ em và có ti vi.

– Nó sao thế, hoàn toàn không thể ngồi được à? Hãy đặt nó lên đi văng và kê gối cho nó.

Người ta đặt tôi lên đi văng, kê gối cho tôi và đút cháo kiều mạch cho tôi ăn. Vì bất ngờ tôi đã ăn hết cả một đĩa cháo và ngủ thiếp đi. Cháo rất ngon. Tôi thích cô nhi viện đó.

***

Bệnh viện. Đêm. Tất cả đã ngủ. Một y tá chạy vào phòng bệnh, bật chiếc đèn ngủ phía trên giường của tôi. Cô mặc váy dạ hội, giày cao gót, tóc cuốn lọn xoà trên vai. Cô cúi sát bên tôi. Đôi mắt cô thật to và rạng ngời hạnh phúc. Người cô toả mùa nước hoa và một mùi gì đó rất ấm cúng, không phải mùi bệnh viện.

– Há mồm ra, nhắm mắt lại.

Tôi làm theo. Cô bỏ vào miệng tôi một viên kẹo sô cô la to tướng. Tôi biết cần phải ăn kẹo sô cô la ra sao. Phải cầm cái kẹo trong tay và cắn từng miếng nhỏ. Hơn nữa, tôi cũng muốn được ngắm nghía nó.

– Cắn ra và ăn. Hiểu chưa?

Tôi gật đầu.

Cô tắt đèn ngủ và chạy mất. Tôi cắn viên kẹo. Miệng tôi đầy ngập một thứ ngọt ngào và nóng bỏng. Tôi nhai sô cô la, không hiểu sao bỗng thấy chóng mặt. Tôi thấy thoải mái. Tôi hạnh phúc.

***

Người ta lại đưa tôi đến một cô nhi viện tiếp theo. Tôi bò trong hành lang, một bảo mẫu đi về phía tôi. Hành lang tối om và bà bảo mẫu không nhận ra tôi ngay. Khi đã đến thật gần, bỗng bà kêu thét lên và nhảy lùi lại. Rồi bà tiến đến gần, cúi xuống để nhìn tôi cho rõ. Da tôi ngăm đen, đầu tôi trọc lốc. Trong bóng tối nhập nhoạng, thoạt đầu chỉ có thể nhìn thấy cặp mắt to lơ lửng trong không khí cách sàn chừng mười lăm cen ti mét.

– Gầy quá. Chỉ có da bọc xương. Như là vừa từ trại tập trung ra ấy.

Quả thật tôi chẳng mập cho lắm. Nơi tôi ở trước đó, thức ăn không được tốt, hơn nữa tôi lại kém ăn.

Bà bước đi rồi quay trở lại sau vài phút và đặt trước mặt tôi một mẩu bánh mì với lát mỡ. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy mỡ, bởi vậy trước tiên tôi ăn mỡ, sau đó mới ăn bánh mì. Tôi bỗng thấy ấm áp và khoan khoái, tôi ngủ thiếp đi.

***

Lễ Phục sinh. Tất cả các bảo mẫu đều ăn mặc đẹp. Không khí lễ hội hiện diện trong mọi thứ, trong việc các bảo mẫu không hiểu tại sao lại đặc biệt tốt với chúng tôi, trong sự cảnh giác của các cô giáo dưỡng. Tôi chẳng hiểu gì hết. Bởi trong các ngày lễ, trên ti vi phải chiếu cảnh duyệt binh và diễu hành. Chỉ có Tết là không có diễu binh. Nhưng Tết có cây thông và quà tặng.

Sau bữa sáng, bà bảo mẫu chia cho chúng tôi mỗi đứa một quả trứng tô màu. Bên trong, quả trứng cũng trắng như trứng thường. Tôi ăn quả trứng Phục sinh. Nó rất ngon, ngon hơn nhiều những quả trứng mà chúng tôi được ăn trong cô nhi viện. Trứng của cô nhi viện luộc quá chín, cứng, còn quả trứng này mềm và ngon tuyệt.

Thật lạ, nhưng cho dù tôi có ở đâu, trong cô nhi viện, trong bệnh viện hay trong nhà dưỡng lão, trong lễ Phục sinh tôi luôn được ai đó tốt bụng cho một quả trứng tô màu. Và điều này thật tuyệt.

***

Ở nước Nga có tục bố thí khi có giỗ. Trong ngày thứ bốn mươi, họ hàng người chết phải bố thí đồ ăn, hơn nữa không phải là cho bất cứ ai gặp được, mà là cho những kẻ bất hạnh nhất. Kẻ được chia sẻ thức ăn càng bất hạnh bao nhiêu thì người chết càng hài lòng bấy nhiêu, và bạn sẽ càng có thành tích lớn trước Chúa bấy nhiêu. Nhưng tìm đâu ra người bất hạnh như thế trên đất nước sung sướng nhất thế giới này? Bởi vậy nên những con người thiếu may mắn đó đi tới cổng cô nhi viện của chúng tôi với lỉnh kỉnh nào túi, nào làn, nào bọc. Họ mang tới kẹo, bánh ngọt, bánh nướng. Họ mang tới bánh kem và bánh xèo, tất cả những gì họ có thể mang tới. Các cô giáo dưỡng kiên nhẫn đuổi họ đi, nhưng thường là vô hiệu.

Lợi dụng vị trí của mình, các bảo mẫu của chúng tôi đã tìm cách mang được đồ “giỗ” lọt qua cổng cô nhi viện, mặc lệnh nghiêm cấm.

Các bảo mẫu chăm sóc chúng tôi, những đứa trẻ không đi được, là gặp may hơn cả. Chúng tôi được cho ăn ở một nơi riêng biệt, các cô giáo dưỡng lại ở xa. Một bảo mẫu còn mang được qua cổng cả một nồi nước quả. Hơn nữa, chúng tôi là những kẻ bất hạnh nhất. Cho được chúng tôi ăn quý bằng vạn cho người khác.

Về phần mình, chúng tôi biết rằng, không được nói “cám ơn” khi được đãi đồ “giỗ”. Không được cười.

Tôi nằm trong vườn. Nơi chúng tôi gọi là vườn chỉ là mấy cây táo mọc cạnh toà nhà cô nhi viện. Để đến được vườn, tôi phải bò rất lâu, tôi mệt và nằm ngửa nghỉ ngơi. Tất cả những đứa trẻ đi được đang ở xa, có thể họ đang xem phim trong câu lạc bộ, có thể họ được dẫn đi đâu đó, tôi không nhớ. Tôi nằm và chờ đợi một quả táo rơi xuống bên cạnh. Nhưng tôi đã gặp may hơn nhiều.

Một bà già gầy gò trèo qua hàng rào. Hàng rào cao hai mét, nhưng điều đó không ngăn cản được bà. Bà nhanh nhẹn nhảy xuống, ngó nghiêng bốn phía và tiến lại phía tôi. Sau khi xem xét tay chân tôi một cách thành thạo, bà nghi ngại hỏi: “Mồ côi phải không?” Tôi gật đầu. Bà già không ngờ lại gặp may đến vậy: chân tay co quắp, lại còn mồ côi! Bà đặt chiếc giỏ xuống đất, vén lớp khăn đậy bên trên, lôi bánh xèo ra, đưa cho tôi và ra lệnh: “ăn đi!”. Tôi lập tức ngốn bánh, bà già hối thúc tôi và liên tục nhắc: “Hãy cầu nguyện cho cô Varvara, cô Varvara”. Nhưng mọi chuyện tốt đẹp đều có kết cục chóng vánh. Cô giáo dưỡng đã xuất hiện phía góc vườn.

– Tại sao lại có người lạ bên trong? Ai cho vào? Bà kia làm gì ở đây?

Và nói với tôi:
– Cháu đang làm gì thế?

Tôi đang làm gì ư? Tôi đang nhai chiếc bánh thứ ba. Nhai vội vã, bởi trong tay tôi còn một nửa chiếc bánh và tôi muốn kịp ăn bằng hết.

Bà già nhanh nhẹn đã chộp lấy chiếc làn và biến mất sau hàng rào. Tôi nhanh chóng ngốn nốt chiếc bánh. Cô giáo dưỡng dừng bước, không hiểu sao lại mỉm cười và quay đi.
Đó là những chiếc bánh xèo đầu tiên trong đời tôi.

***

Người ta lại chuyển tôi từ cô nhi viện này tới một cô nhi viện khác. Lễ hội đã bắt đầu ngay trên sân ga, người ta cho tôi ăn kem và xi-rô. Chiếc kem rất to, bọc sô cô la. Tàu vừa chuyển bánh, bảo mẫu và y tá cũng chuồn luôn, theo cách họ nói là “đi dạo”. “Sao, chúng ta đi dạo chứ?”. Rồi họ quay lại với hai người đàn ông Gruzia. Một người già, tóc bạc, người kia trẻ hơn một chút. Họ uống vodka, bọn họ đang vui. Họ cắt cho tôi một khoanh giò, cho tôi trứng và xi-rô. Người tóc bạc liên tục cắt giò, làm bánh kẹp và luôn miệng nói với tôi: “Cháu ăn đi, ăn đi, trẻ con cần phải được ăn uống đầy đủ”. Thức ăn rất nhiều, có thể nhìn thoả thích ra ngoài cửa sổ và chén giò. Tôi muốn được đi mãi, đi mãi, được nhìn qua cửa sổ. Tôi nghĩ, nếu cho tất cả người lớn trên trái đất này thật nhiều vodka và giò, họ sẽ tốt bụng và tất cả trẻ em sẽ hạnh phúc.

***

Tôi đang ở trong cô nhi viện cuối cùng và tốt nhất trần đời. Trước mặt tôi là bữa sáng: một ít khoai tây nghiền, một nửa trái cà chua, một chiếc bánh ngọt phết bơ và một cốc nước chè. Tôi biết chắc chắn hôm nay không phải là ngày lễ, nhưng sao người ta lại cho tôi ăn khoai tây? Tôi nếm thử nước chè – nó rất ngọt. Cà chua tươi là món hảo hạng. Tôi chén sạch và hiểu rằng tôi gặp may quá sức tưởng tượng, tôi đã tới thiên đàng.

Tôi và Katia sống trong căn phòng tầng hầm, bởi bố mẹ cô ấy không muốn chấp nhận cuộc hôn nhân của chúng tôi. Đó là căn hộ của cô giáo tôi – một trong những người phụ nữ tốt bụng nhất thế gian. Bà đã cho chúng tôi ở căn hộ của mình, còn bà tới sống ở nhà nghỉ ngoại ô.

Trên đường từ trường Tổng hợp về, Katia mua sủi cảo. Em luộc cả gói một lúc. Tôi đã biết thế nào là sủi cảo. ở cô nhi viện, mỗi chúng tôi được bốn miếng.
– Chúng ta sẽ ăn bao nhiêu đây? – Tôi hỏi Katia.

Em nhìn tôi lạ lùng.
– Bọn anh đếm sủi cảo sao?

Em dọn sủi cảo ra. Katia ăn hết đĩa sủi cảo, tôi không thể cố được hơn sáu cái. Tôi hiểu rằng trong cái thế giới lạ lùng, không sống bằng ngân sách này, người ta không đếm sủi cảo.

– Em đừng đổ nước luộc sủi cảo, – Tôi khuyên Katia một cách thông thạo. – Có thể dùng để nấu súp.

Mấy ngày sau, Katia về nhà bố mẹ ăn sủi cảo. Mẹ em bưng nồi nước luộc sủi cảo khỏi bàn và định đi vào bếp.

– Mẹ ơi, đừng đổ đi, có thể dùng để nấu súp, – Katia nói một cách vô thức.

Ngày hôm sau, khi Katia tới trường Tổng hợp, mẹ cô lặng lẽ đến ngôi nhà của chúng tôi và đặt cạnh cửa một con gà làm sẵn. Quan hệ đã được cải thiện.

***

Khi Katia đi làm, tôi còn lại một mình với một người phụ nữ tuyệt vời nhất đời – chúng tôi sống cùng một nhà với bà cô ấy.

Bà bước vào phòng tôi, ngồi xuống phía đối diện:
– Sao, cháu vẫn chưa chết à?
– Bà sao thế, – tôi trả lời. – Khi nào cần cháu sẽ chết. Bà cũng còn trẻ nữa đâu. Hay bà định trường sinh đấy?
– Cháu cần cho ai hả thằng không tay, không chân? Đến cái đinh đóng cũng không nổi.
– Bà có bút mực không?
– Có.
– Bà hãy đi quanh nhà và chỗ nào cần đóng đinh, bà hãy đánh dấu vào. Tin cháu đi, đinh sẽ được đóng lên.

Và chúng tôi giết thời gian bằng những câu chuyện tâm tình. Bà kể cho tôi nghe về tuổi trẻ của mình, về họ hàng. Từ những câu chuyện của bà có thể thấy rằng, họ hàng của bà toàn là những người đểu giả, mất dạy.

Một lúc sau bà đi ra bếp, tiếng nồi xoong xủng xoảng. Bà quay lại.
– Ruben. Bà đã nấu súp đây này. Có ăn không, hay sợ ta đầu độc?
– Cho cháu ăn súp, còn đầu độc thì cháu không sợ, thứ gì cháu cũng đã từng ăn.

Bà mang súp tới cho tôi. Súp rất ngon. Dưới đáy đĩa – một miếng thịt vịt to tướng.

***

Khi Alla có mang, chúng tôi sống rất cực. Alla ăn bánh mì với mỡ nước. Tôi không thể ăn được mỡ, tôi ăn bánh mì với dầu hướng dương. (Trong cô nhi viện, bánh mì rưới dầu hướng dương, rắc muối được coi là thức ngon). Năm đó, lần đầu tiên tôi bị đau dạ dày. Chúng tôi còn nấu súp đậu. Alla không ăn súp, tôi ăn nó một mình. Tôi sướng hơn cô ấy gấp trăm lần, tôi có thể ăn súp và không phải mang bầu. Khi Maia chào đời, Alla quyết định nuôi con bằng sữa mẹ. Nuôi bằng sữa mẹ rất tốt. Nhưng Maia ăn rất kém. Sữa của Alla có màu xanh nhợt. Và phân của Maia cũng có màu xanh. Trong suốt thời gian đó, Alla chỉ ăn khoai tây. Alla là một người khỏe mạnh, cô ấy cần thức ăn nhiều hơn tôi rất nhiều. Cô ấy ăn một bữa bằng tôi ăn cả ngày. Chúng tôi thấy rằng, với Maia, nuôi bộ sẽ rẻ hơn là phải bảo đảm chế độ dinh dưỡng bình thường cho Alla.

***

Một người quen tới thăm.
– Cậu sống ra sao?
– Bình thường.
– Cậu ăn gì?
– Súp đậu.
– Nấu với khoai tây chứ?
– Tất nhiên.
– Còn chúng tôi đã hai tuần nay ăn súp đậu không có khoai tây.
Tôi ăn súp đậu vẻn vẹn có ba ngày. Tôi có một bao tải khoai tây.

***

Maia một tuổi rưỡi. Con không chịu ăn cháo. Tôi đỡ lấy và bình tĩnh ăn hết. Đầu tiên Maia đòi ăn giò, sau đó đòi bánh xèo. Chẳng có cả giò lẫn bánh xèo, nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Nếu đói, người ta sẽ ăn bất cứ thứ gì, nếu không đói, cứ việc đi lại (luật lệ của cô nhi viện). Maia đi lại trong nhà, suy nghĩ. Sau đó bình tĩnh tới chỗ Alla và nói: “Mẹ ơi, luộc khoai tây đi”. Chúng tôi ăn khoai tây chấm muối với dầu hướng dương, và tôi nhớ lại, trong cô nhi viện chúng tôi đã luộc khoai tây sau giờ hết giờ bằng một cái máy đun nước tự tạo. Những gì tôi có chỉ khi đã 15 tuổi (chỉ những học trò lớp trên mới được luộc khoai), Maia đã có từ lúc mới lọt lòng.

***

Alla dẫn Maia từ vườn trẻ về. Cười. Em đã gặp bà đầu bếp. Bà tự hào kể rằng hôm nay trong vườn trẻ bữa trưa có thịt gà. “Con gà béo thế này này, to thế này này, ai cũng được một miếng”. Trong vườn trẻ có hơn một trăm cháu. Con gà chỉ có một, chính xác hơn là một con rưỡi. Tôi cũng cười.

Tôi rất mừng vì Maia đi vườn trẻ. ở đó con có nhiều bạn, chúng cùng nặn đất sét, tô màu. Hơn nữa, khi từ nhà trẻ về, Maia ăn tất cả những gì được đút và không làm bộ làm tịch.

***

Trên đường từ nhà trẻ về Maia muốn Alla mua bánh mì khô cho nó. Những miếng bánh mì khô thông thường, tẩm va ni.
– Cần gì hả con, bố mẹ đang có tiền, con có muốn mẹ mua bánh kem hay gì đó khác cho con không?
– Không, bánh mì khô cơ.
Alla mua bánh mì khô. Maia ngồi vào bàn và cả buổi chiều con gặm túi bánh mì khô của mình. Hoá ra, giữa buổi chúng được mỗi đứa một miếng bánh mì khô, mà Maia muốn ăn nữa. Trong cô nhi viện chúng tôi được mỗi người hai miếng bánh mì khô.

***

Khi sống trong nhà dưỡng lão, có một điều làm tôi kinh ngạc. Trong nhà ăn, sau bữa trưa, người ta phát xương. Những mẩu xương bò bình thường còn lại trong nồi xúp. Chỉ những cựu chiến binh mới được phát xương. Xương đã được lóc sạch thịt rất kỹ, nhưng nếu khéo léo vẫn còn có thể gặm được tí chút. Các cựu chiến binh chen chúc trước ô cửa phát xương, mắng chửi nhau, so bì công lao và danh hiệu. Cách đây không lâu, tôi có hỏi một người quen làm trong đó: “ở đó người ta vẫn còn phát xương chứ?”

– Làm gì có! Đã từ lâu không ai nấu gì với xương nữa rồi. Không có xương!

Leave a Reply