Giải nghĩa Kinh Thánh. Chương 1.4 – Trong Vườn của Eden

Giải nghĩa các câu từ St 2:8 đến 2:25 (hết Chương 2 sách Sáng thế)

1

St 2:8

Vayita Adonay Elohim gan-be’Eden mikedem vayasem sham et-ha’adam asher yatsar.

God planted a garden in Eden to the east. There He placed the man that He had formed.

Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.

Đoạn, Giê-hô-va Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó.

“Và Đức Chúa Trời đã trồng (vayita) một vườn trong Eden (gan be’Eden) ở phía trước (mikedem – ở phía trước, từ phía trước, ở phía đông) và đặt (vayasem) ở đó con người (ha’adam) mà Ngài đã tạo ra (yatzar)”

Trước hết, chúng ta cần lưu ý rằng con người được đặt trong Eden, hay đúng hơn, được chuyển vào Eden, không phải là con người được sáng tạo ra (bara) và cũng không phải là con người được làm xong (asa) – con người vẫn chưa được làm xong hẳn – mà là con người được hình thành, tồn tại và sống ở cấp độ siêu hình yietsira. Eden không tồn tại ở thực tại không gian trần thế. Eden là một lớp Sự sống đặc biệt, mà ở đó mọi thứ tồn tại theo một nghĩa nào đó khác với trên Trái đất.

Kế hoạch Sự sống, được gọi là Eden, là nguồn gốc của sự tồn tại ở trần thế. Trần thế trực tiếp dựa vào đó, nhận các năng lượng và thể chế của mình. Về mặt ngôn ngữ, từ eden có thể được hiểu như là thứ hỗ trợ sự sống trên trần thế. Eden thông tin cho Thế giới của chúng ta về od – độ rộng của không gian và độ dài thời gian – và do đó giữ nó trong ranh giới.

Không thể nói Eden là một kế hoạch phi vật chất của Tạo hóa. Đây là khu vực của Sự sống, nơi mà Vũ trụ vật chất và tinh thần hòa với nhau thành một khối. Do đó mà con người được tạo ra từ afar, từ phần đất dễ bay, từ “vật chất mỏng”, có thể được chuyển đến đây. Nhưng đó vẫn chưa phải là một con người bằng xương bằng thịt. Đây chỉ là một con người được tạo ra, hình thành, là mô hình và bản chất của anh ta.

Tất nhiên, Eden là nguồn gốc của tất cả các phước lành của cuộc sống trên trần gian và không chịu sự xấu xa của cuộc sống này. Do đó, Eden trong tâm trí con người là một khu vực hài hòa, hạnh phúc của cuộc sống. Nhưng Eden được tạo ra bởi Đấng Toàn Năng không phải dành cho hạnh phúc của bất cứ ai, nhất là con người. Eden có mục đích công việc của mình, được chỉ ra bởi sự kết nối của từ Eden với từ adi cùng gốc, có nghĩa là thụ thai. Eden là khu vực thụ thai của một sinh vật mới có đời sống tinh thần cao nhất, ở giai đoạn mới của Sáng thế.

Kinh Thánh nói: gan be’Eden – vườn trong Eden. Vườn và Eden không phải là một. Vườn (gan) là một khu vực đặc biệt, được phân chia từ Eden cho con người đã được tạo ra nhưng chưa được hoàn thành. Vùng này được kết nối với thế giới vật chất trần gian. Ở đây, theo một nghĩa nào đó, có thể “nhìn thấy”, “nghe thấy”, “ăn”, có thể mang động vật đến đây từ Trái đất, ở đây có thể thụ thai và sinh ra Cain. Vườn Eden là một loại phòng thí nghiệm của Thiên Chúa, ở nơi khởi nguồn của thực tại trần gian này là những thử nghiệm của con người trên những mô hình của mình. Con người vẫn chưa hoàn toàn phù hợp để có thể độc lập thực hiện sứ mệnh của mình trong Sáng thế. Vườn trong Eden là nơi trưởng thành cho con người được tạo dựng, hoàn thiện con người theo Ý định của Đấng Tạo hóa. Việc mọi thứ của cuộc sống trên trái đất tồn tại trong Vườn của Eden không phải để phục vụ mục đích của hạnh phúc thiên đường. Đối với Adam, đây không phải là “thiên đường”, mà là nơi làm việc, công việc khó khăn và đòi hỏi trách nhiệm cao.

Con người là một sinh vật có ý chí tự do. Và Đức Chúa Trời trong Vườn của Eden làm việc với sự tự do của con người, trong sự hợp tác với anh ta. Con người ở đây phải trưởng thành bản thân, và hơn thế nữa, phải đưa ra lựa chọn về quá trình phát triển tiếp theo và chỗ sinh sống của mình. Phòng thí nghiệm của Vườn trong Eden là một khu vực làm việc kết hợp giữa trời và đất, nơi con người từ bụi đất trước tiên phải trưởng thành, và sau đó chọn Con đường sống cho mình. Chọn cho tất cả chúng ta … Nhưng, trong mọi trường hợp, công việc của Thiên Chúa sẽ không thể bị phá hủy hoặc không được hoàn thành bởi sự tự do mà Ngài đã ban cho con người.

Chúng ta hãy cùng xem cách Thiên Chúa làm việc với con người trong phòng thí nghiệm Vườn của Eden.

St 2:9

Vayatsmach Adonay Elohim min-ha’adamah kol-ets nechmad lemar’eh vetov lema’achal ve’Ets haChayim betoch hagan ve’Ets haDa’at tov vara.

God made grow out of the ground every tree that is pleasant to look at and good to eat, [including] the Tree of Life in the middle of the garden, and the Tree of Knowledge of good and evil.

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác.

Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác.

Từ câu văn này, chúng ta biết rằng trong Vườn có “đất” (adamah), từ đó Đức Chúa là Thiên Chúa đã trồng ba loại cây, hay ba Cây.

Cây thứ nhất là “mọi cây (kol etsats) trông thì đẹp và ăn thì ngon”

Được nhắc đến đầu tiên là hình dáng của cây. Hóa ra, hình dáng quan trọng không kém, nếu không muốn nói là hơn, so với vị và tính hữu dụng của nó. Vẻ đẹp của “mọi cây” không phải cho riêng mình, mà dành cho con người “nhìn”, cần thiết để con người cảm nhận. Theo một nghĩa nào đó, điều quan trọng đối với con người là những gì anh ta “nhìn thấy”, hơn là những gì anh ta “ăn”.

Một cây khác là Cây Sự sống, ets ha chaim. Cây này không phải để ăn và không phải để nhìn, mà là để làm gì đó khác.

Midrash nói rằng Cây sự sống ôm trọn tất cả sự sống, là biểu tượng của sự sống, và là biểu hiện đầy đủ của động lực phấn đấu vì điều tốt đẹp cho sự sống. Động lực này đặt ra khả năng phân biệt điều gì là cần thiết cho cuộc sống và điều gì không cần thiết, điều gì hữu ích và điều gì có hại, điều gì là tốt và điều gì là xấu. Kiến thức này càng sâu, sinh vật càng có đời sống tâm linh cao, càng sống động hơn, càng được lấp đầy hơn từ nguồn sống, thì nó càng nằm ở cấp độ cao hơn trên Cây sự sống.

Cây thứ ba là “ets (cây) ha da’at (kiến thức) tov (tốt, thiện) va-ra (và ác)”.

Ở đây, lần đầu tiên, văn bản có từ “ác”. Vậy ra nghĩa là gì? Chúng ta đã nhiều lần gặp từ tov trong mô tả của Những ngày Sáng thế. Tov là những gì ở đúng vị trí của nó – ở đó và như vậy, như được chỉ định. Ra là cái đó bị vỡ, bị gãy. Nhưng cây gì mà làm gãy? Và làm gãy cái gì? Làm sao để hình dung ra một người mà nói chung không thể phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác? Làm sao một người không biết thiện ác có thể hoàn thành Ý chí của Chúa Trời, có thể xác định được điều gì tương ứng với Ý chí đó và điều gì không? Thêm nữa, đó là loại Cây ma thuật gì, mà khi ăn vào thì, như thể bằng phép thuật, bạn biết: điều gì là xấu, điều gì là tốt …

Có một cách diễn đạt đặc biệt trong tiếng Do Thái – kết hợp liên từ, smikhut – kết hợp một số danh từ liên tiếp. Mỗi danh từ tiếp theo xác định danh từ trước đó. Ví dụ: beit (nhà) ha abba (bố) – nhà của bố. Và có một quy tắc ngữ pháp mà theo đó mạo từ xác định ha luôn đứng ngay trước từ cuối cùng của toàn bộ chuỗi, mà nói chung, có thể dài vô hạn.

Có ba danh từ trong tên của cây thứ ba, và có vẻ như mạo từ ha cần đứng trước thành phần cuối cùng: ets daat ha tov va ha ra. Nhưng Torah không viết thế. Nghĩa là chuỗi từ kết thúc không phải ở tov vara, mà ở daat. Như vậy, tov va-ra – “thiện và ác” – không tạo thành một cấu trúc ngữ pháp cứng với ets daat, với “cây kiến thức”. Không phải là “Cây kiến thức” – kiến thức gì? – “thiện và ác”, mà là “Cây kiến thức”, và tiếp theo là: “thiện và ác”. Mối liên hệ giữa “kiến thức” và “thiện và ác” chắc chắn vẫn có, nhưng là một loại kết nối ngữ nghĩa phức tạp nào đó.

Theo Maimonides (thế kỷ XII), Cây thứ ba mang lại cho con người không phải “tri thức ​​thiện ác”, mà là tri thức thái quá, có hại, tạo ra những khát vọng mâu thuẫn, xé nát tâm hồn con người. Một nhà tư tưởng thời Trung cổ khác, Abarbanel, thì hiểu daat tov vara là toàn bộ các lĩnh vực hoạt động văn minh, trong đó con người ngoan cố tìm kiếm một sự sắp xếp tốt hơn cho mình trên Trái đất và do đó tự hủy hoại chính mình.

Nhiều nhà bình luận Torah cảm thấy rằng không có sự tương ứng trực tiếp giữa da’attov va-ra. Thật vậy, không lẽ “thiện và ác” là thuộc về lĩnh vực trí tuệ hay bất kỳ hành động nhận thức nào khác của tâm trí con người? Thiện và ác là một vấn đề của đạo đức, sự lựa chọn về mặt luân lý của trái tim, chứ không phải là phạm vi của “kiến thức” hay sự suy nghĩ của trí óc.

Chúng ta cũng lưu ý rằng da’at là “kiến thức”, ” tri thức”, chưa không phải là “phân tách” hoặc “phân biệt”. Chúng ta không được kể rằng, nếu một người không được nếm mùi vị từ Cây này thì không thể phân biệt giữa thiện và ác. Và vấn đề không phải ở chuyện phân biệt hay không phân biệt.

Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của tên gọi của Cây thứ ba, cần phải nắm bắt một cách chính xác bản chất của mối liên hệ giữa tovra. Tov (thiện) và ra (ác) không tách rời nhau như hai cực, mà được nối với nhau bằng liên minh va (và), chúng tồn tại cùng nhau, trong một liên kết đặc biệt. Chính sự kết hợp luẩn quẩn giữa “thiện” và thứ phá vỡ nó, “ác”, tức là nhận thức điều ác thành điều thiện và nhận thức điều thiện là điều ác hoặc thứ sẽ dẫn đến điều ác, mới gây ra điều ác. Tov va-ra chỉ sự nhầm lẫn giữa thiện và ác trong con người đã ăn từ Cây cấm.

Những tai họa của con người phần lớn không xuất phát từ hành động chủ ý của cái Ác. Ít khi người ta làm điều ác vì tình yêu đối với điều Ác. Con người luôn cảm thấy dường như mình đang làm điều Thiện – dù là cho bản thân, cho con cái, cho cộng đồng, cho lý tưởng, cho nhân loại, cho thiên nhiên, hay cho các vị thần. Kết quả là, điều ác ra được thực hiện. Trong mọi thời đại, và đặc biệt là thời đại chúng ta, những người “biết điều thiện” tuyên bố điều đó, và rồi nó chắc chắn biến thành điều ác. Chúng ta đang sống trong một thế giới hiểu biết về điều thiện ảo, giả, mà khi thực hiện thì sẽ làm nảy sinh điều ác. Rất nhiều ví dụ cho thấy, những gì một cá nhân cho là thiện cho bản thân trong cuộc sống cá nhân của anh ta hóa ra lại rất không thiện cho anh ta, hay thậm chí còn không hề là điều thiện. Điều này cũng đúng trong cuộc sống xã hội. Và cũng đúng trong mọi mối quan hệ khác. Con người, trong khi tìm cách nhận thức điều thiện, hóa ra phá vỡ nó, tạo ra ra. Đây là bi kịch vĩnh cửu của cuộc sống con người, phát sinh sau khi Adam tự ý chiếm đoạt trái của Cây biết điều thiện và điều ác.

Cây thứ ba được định nghĩa “bởi kết quả của nó”. Người đã nếm trái của nó sẽ luôn bị ép buộc, trong khi tìm biết đâu là thiện, đâu là ác, thì tự mình phá hủy điều thiện, tức là làm điều ác. Sau đây chúng ta sẽ còn thấy rằng sự “sa ngã” của Adam, về bản chất, chính là hành động của daat tov va-ra: sự bất tuân của kẻ biết “điều thiện” đã trở thành “điều ác”, và để cho cái Ác lọt vào Thế giới.

Ở đây, tôi tập trung sự chú ý của bạn vào cách hiểu như vậy về Cây tri thức không phải vì nó tiết lộ đầy đủ về tên gọi của cây, mà bởi vì ngay sau đó, tiếp theo trong văn bản của Torah, nó được khẳng định và phát triển tiếp.

St 2:10

Venahar yotse me’Eden lehashkot et-hagan umisham yipared vehayah le-arba’ah rashim.

A river flowed out of Eden to water the garden. From there it divided and became four major rivers.

Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh.

Một con sông từ Ê-đen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả.

“Và sông chảy ra (thời hiện tại) từ Ê-đen để tưới Vườn và từ đó nó phân chia (thời tương lai) và trở thành bốn cái đầu (rashim)”.

Từ Eden, nguồn gốc của các phước lành của thế giới của chúng ta, một “dòng sông” chảy ra, “tưới” cho khu Vườn liền kề với Eden. Trong tương lai, “dòng sông” chứa đựng sự tốt đẹp này sẽ chia ra và ra khỏi khu Vườn bằng bốn “đầu”, các dòng chảy. Liệu có phải, điều này nghĩa là trong thiết kế của Khu vườn ngay từ đầu đã tính đến các lối ra khỏi đó? Trong mọi trường hợp, khi bắt đầu câu chuyện về những gì đã xảy ra trong Vườn Eden, Torah đã chỉ ra bốn cái đầu, bốn hướng mà con người (trong trường hợp “sa ngã”?) có thể rời khỏi khu Vườn. Mỗi hướng được kết nối với một khu vực nhất định trong cuộc sống của một con người phàm tục và tội lỗi, và đặc trưng cho con đường nhận thức kéo dài và đau đớn của anh ta, mà càng trở nên nặng nề hơn bởi sự nhầm lẫn giữa thiện và ác.

St 2:11-12

Shem ha’echad Pishon hu hasovev et kol-erets haChavilah asher-sham hazahav. Uzahav ha’arets hahi tov sham habedolach ve’even hashoham.

The name of the first is Pishon. It surrounds the entire land of Havilah where gold is found. The gold of that land is [especially] good. Also found there are pearls and precious stones.

Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi có vàng; vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc.

Tên ngả thứ nhứt là Bi-sôn; ngả đó chảy quanh xứ Ha-vi-la, là nơi có vàng. Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bích ngọc.

Một hướng được gọi là Pishon, “nó đi khắp xứ (erets) Havila, trong đó có vàng (asher sham ha zahav)”.

Havila có nghĩa là “xa xỉ”. Tiếng Do Thái hiện đại, vốn thích chơi chữ, sử dụng từ này với nghĩa “villa -biệt thự” – havilat. Trong vùng đất Havila, có (sham) vàng. Vàng, zahav – là biểu tượng của “xứ” này. Từ Vườn Eden, con người đến xứ này được dẫn đường bởi lòng đam mê xa xỉ và hám lợi.

“Và vàng của vùng đất đó (aretz) là tốt (tov), ​​ở đó (sham) pha lê (bdolakh) và đá mã não (sheham)”

Biết bao nhiêu cuộc chiến tranh, giết người, trộm cắp, phản bội, sỉ nhục và thậm chí cả những cuộc cách mạng đã xảy ra trên thế giới bởi vì ai đó coi sự giàu có và xa xỉ là tốt (tov) cho bản thân. Khát vọng làm giàu chắc chắn là một ví dụ sinh động về cách tov tự biến thành ra. Hơn nữa, ở câu 2:12, cơ chế kết hợp giữa “thiện” và “ác” cũng được bộc lộ.

Ở vùng đất Havila, không chỉ có vàng là “tốt”, mà còn có những viên đá quý mà một người trang điểm cho mình không phải vì mục đích làm đẹp, mà để nổi bật, tạo sự khác biệt, tôn mình lên trong mắt người khác. Trên hết, một người cần sự giàu có và sang trọng để khẳng định bản thân, để tôn vinh “cái tôi” của mình. Đối với cái tôi, thì sự giàu có và sang trọng là tốt, tov. Những nhu cầu nội tại của cái tôi ích kỷ đã tạo ra một điều thiện ảo, và biến nó thành điều ác. Tov thường biến thành ra nhiều nhất là thông qua sự vị kỷ. Sự thâm nhập của cái tôi vào linh hồn và việc ăn từ Cây tri thức về thiện và ác là những quá trình đồng nhất.

Từ Pishon có nghĩa là “lây lan, phổ biến”; như Rashi giải thích, nó là một dòng chảy “trang lạng”, “tràn bờ”. Đó là tính chất điển hình của mọi nỗ lực làm giàu và tự nâng mình lên thông qua đó. Cái tôi của con người không bao giờ được giữ trong ranh giới của “tôi” mà cố gắng tràn ra, tràn ngập những “tôi” khác. Pishon chảy vào vùng đất Havila là một trong những cách tích cực để trục xuất cái tôi khỏi Vườn Eden.

St 2:13

Veshem hanahar hasheni Gichon hu hasovev et kol-erets Kush.

The name of the second river is Gihon. It surrounds the land of Cush.

Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút.

Tên sông thứ nhì là Ghi-hôn, chảy quanh xứ Cu-sơ.

Dòng sông dữ dội và tràn đầy năng lượng Gihon là niềm đam mê tà dâm của một người đàn ông. Kush (Ethiopia, Châu Phi) – là biểu tượng của nhục dục, dục vọng. Sự tà dâm, được công nhận là tốt (kiểu như “điều tốt tự nhiên” của thể xác) biến thành điều xấu xa làm hư hỏng tâm hồn. Nhưng điều quan trọng là phải hiểu rằng cả sự che lấp tri thức này, thể hiện điều xấu là tốt, được tạo ra không phải bởi dục vọng phi nhân của thể xác, mà bởi chính cái tôi tự lừa dối nêu trên.

St 2:14

Veshem hanahar hashlishi Chidekel hu haholech kidemat Ashur vehanahar ha revi’i hu Ferat.

The name of the third river is the Tigris which flows to the east of Assyria. The fourth river is the Euphrates.

Tên nhánh thứ ba là Tích-ra; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh thứ bốn là Êu-phơ-rát.

Tên sông thứ ba là Hi-đê-ke, chảy về phía đông bờ cõi A-si-ri. Còn sông thứ tư là sông Ơ-phơ-rát.

Dòng thứ ba được gọi là Chidekel (trong ngôn ngữ hiện đại, đây là tên của sông Tigris), “nó đi trước Ashur”.

Ashur (Assyria) – là biểu tượng của quyền lực, chinh phục, đế chế. Khát vọng thống trị, mà cái tôi cho là tốt đối với bản thân, là một ví dụ rõ ràng khác về sự kết hợp luẩn quẩn giữa “thiện và ác” trong ý chí vị kỷ của con người. Cái tên “Chidekel” chỉ ra cách thức hoạt động của lòng ham muốn thống trị về mặt tinh thần. Dòng nước này chảy ào ào gầm rú và nhấn chìm vào chính nó.

“Và dòng thứ tư là Prat (Ephrates)”. Tên của con sông thứ tư bắt nguồn từ chữ para – sinh sôi, cho mùa màng. Nước của Prat kết trái, sinh sôi, ban phước cho mọi người. Lối ra thứ tư từ Vườn Eden không phải là chết chóc, không có sự chuyển đổi tov thành ra trong đó. Các nhà hiền triết nói rằng tiếng nói của Prat không được nghe thấy, trong khi ba dòng nước kia thì chảy ồn ào trên Thế giới. Prat – là đơm hoa kết trái, theo nghĩa sâu xa của trái cây là kết quả của cuộc sống. Quả của Prat là quả của Cây Sự sống. Prat chảy khỏi khu Vườn chính là dòng sông chảy ra từ Eden và tưới Cây Sự sống trong khu Vườn.

Như vậy, chúng ta thấy rằng từ Vườn của Eden, nơi con người được chuyển vào, các lối ra đã được chuẩn bị trước. Ngay từ đầu, con người trong Vườn có quyền lựa chọn: ở lại Vườn hoặc rời khỏi nó. Nhưng có thể đi ra theo nhiều hướng khác nhau. Sự kết hợp và lẫn lộn giữa thiện và ác là điều bắt buộc trong cuộc sống của con người chỉ khi người đó đi theo ba hướng đầu tiên. Nhưng có một cách khác để rời khỏi Eden – Con đường của Prat.

2

Torah được viết theo phong cách khác với những gì mà người châu Âu quen thuộc. Nó có thể, không cần cảnh báo, đi ra khỏi câu chuyện chính và cũng bất ngờ như vậy, đôi khi sau nhiều câu kinh, lại quay trở lại câu chuyện. Điểm bắt đầu và kết thúc của đoạn được chèn vào cũng không phải lúc nào cũng rõ ràng.

Vào Ngày Thứ Sáu của Sáng Thế, Đức Chúa là Thiên Chúa đã hình thành con người từ “bụi đất” và thổi vào mặt nó hơi thở của Ngài, neshama. Điều này được kể trong câu 2:7. Tuy nhiên, trong câu 2:8, câu chuyện đột ngột quay trở lại Ngày Thứ ba của Sáng thế, khi Vườn Eden được tạo ra, và sau đó là bảy câu, 2:7 đến 2:14, là câu chuyện chèn thêm về Vườn của Eden. Không thấy được điều này thì rất dễ làm mất đi ý nghĩa của bài thuyết trình.

Mô tả về sự sắp xếp của khu Vườn là một đoạn lồng vào câu chuyện đã bị ngắt ở câu 2:7 và tiếp tục lại từ câu 2:15.

St 2:15

Vayikach Adonay Elohim et-ha’adam vayanichehu vegan-Eden le’ovdah uleshomrah.

God took the man and placed him in the Garden of Eden to work it and watch it.

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.

Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn.

“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt (vayanihehu) vào vườn Ê-đen…”

Eden không phải là nơi con người được tạo ra. Đức Chúa là Thiên Chúa chuyển và để con người trong khu Vườn để trưởng thành độc lập và tự do lựa chọn con đường. Vayanihehu có nghĩa là được đặt vào và để lại, để lại cho công việc tự do trong Vườn. Lĩnh vực công việc tự do của anh ta được xác định bởi Đấng Toàn năng:

“… đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ nó (le’ovdah uleshomra)”

Vườn (Gan) là giống đực. Nhưng nó ở đây lại là giống cái. Câu hỏi đặt ra: “nó” là ai, hay cái gì?

Một câu trả lời: là đất (adama) của khu Vườn. Nhưng đây không phải là “đất” bình thường. Từ đất đó không chỉ mọc lên “mọi cây” và không chỉ Cây Tri thức, mà còn cả Cây Sự sống. “Trồng trọt đất và giữ gìn đất” nghĩa là gì? Có thể đây là một bí mật bất khả tri? Nhưng, những câu của Torah là nhằm nói với chúng ta, do đó chúng cũng phải có một ý nghĩa mà ta có thể tiếp cận.

Trong tiếng Do Thái, danh từ chứa ý nghĩa trừu tượng thường là giống cái. Ví dụ từ Eden. Nếu con người được yêu cầu trồng trọt và bảo tồn cái kế hoạch Sự sống này, cái nguồn gốc và cơ sở của sự tồn tại của chúng ta, thì điều này cũng tối nghĩa như việc trồng trọt và bảo tồn “đất” của khu Vườn.

Tuy nhiên, ở câu 2:15, “và lấy … và đặt” đề cập đến câu 2:7, nói rằng Đức Chúa là Thiên Chúa đã thổi vào con người “linh hồn của sự sống”. Sau khi hiểu trình tự tường thuật của Torah, rõ ràng là Ngài, khi đặt con người vào khu Vườn và để anh ta ở đó, đã chỉ dẫn anh ta chăm sóc và bảo tồn cái linh hồn mà Ngài đã thổi vào. Neshama chính là cái từ giống cái trong câu kinh mà chúng ta đang phân tích. Làm việc với cái linh hồn bậc cao hơn này nghĩa là vừa làm việc trên đất của Vườn kết trái, vừa làm việc trong cội nguồn và nền tảng của sự sống trên trái đất.

Con người chỉ vừa mới được hình thành, được tạo ra bởi Đấng Toàn năng, anh ta vẫn đang ở trên bàn làm việc của Thượng đế, chưa hoàn thiện, chưa sẵn sàng cho cuộc sống, chưa thể tồn tại ở bất cứ đâu ngoại trừ nơi đó – Vườn của Eden, nơi anh ta được đặt, nơi duy nhất mà anh ta có thể được xử lý bởi Đấng Tạo Hóa, và nơi mà chính anh ta phải đưa ra lựa chọn về con đường cho hành động cuộc sống của mình. Do đó, con người có một nhiệm vụ kép. Điều răn cho phép: trồng trọt, lao động, làm; và điều răn cấm: giữ, bảo vệ, không được làm. Trong lời răn đầu – ở trong Vườn của Eden, trong lời sau – không được rời khỏi Vườn.

Vườn của Eden chính xác là nơi mà một người có thể tự chín muồi, “làm việc” một cách hiệu quả cho linh mình. Vườn là nơi làm việc của anh ta. Trong Vườn của Eden, con người ở chỗ của mình. Ở đây anh ta có mọi thứ cần thiết để tự trưởng thành đầy đủ và tự do thực hiện Ý chí của Thiên Chúa.

St 2:16

Vayetsav Adonay Elohim al-ha’adam lemor mikol ets-hagan achol tochel.

God gave the man a commandment, saying, ‘You may definitely eat from every tree of the garden.

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn;

Rồi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn;

“Và Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh (vayetsav) cho con người (al-ha’adam), nói (lemor): từ mọi cây (kol ets) của Vườn, ăn đi, hãy ăn (achol tochel – ăn mạnh vào, ăn đi nào!”) .

Rõ ràng “mọi cây” tức là gồm cả cây siêu hình. Ăn từ cây ấy – là công việc tinh thần tích cực đối để trau dồi linh hồn của con người. Từ lemor chỉ ra rằng, công việc tâm linh này được lập trình vào con người như một nhu cầu được làm đầy, tức là như một quy luật của cuộc sống, điều mà anh ta không thể không thực hiện. Adam cảm thấy đói về tinh thần và phải ăn, nhưng chỉ từ “mọi cây”. Lưu ý rằng “từ cây” tức là vị của trái cây cũng có ý nghĩa, là ets pri, cây-kiêm-quả. Tuy nhiên, tiếp theo trong văn bản, sẽ thấy rằng trên các “cây” của khu Vườn có “trái cây”.

Vườn Eden được trồng vào Ngày Sáng thế Thứ ba, khi Trái đất sinh ra ets ose pri – cây kết trái. Cơ chế sinh hoa kết quả này sau đó được Chúa Trời chấp thuận. Và bây giờ cơ chế này được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm Vườn Eden, áp dụng cho con người. Gan Eden không phải do Trái Đất sinh ra, mà được Thiên Chúa tạo ra với một mục đích đặc biệt. Các cây của Vườn đều ăn được cả thân cây và quả.

Những gì được ăn chuyển thành bản chất của người ăn. agal là cái được nhận vào mình, cái được tạo thành mình. Bạn chỉ có thể ăn những gì mà khi nó trở thành bạn, sẽ hữu ích cho bạn. “Mọi cây” trong Vườn đều dành cho con người, thân và trái của cây, một khi trở thành thức ăn của anh ta, có thể nhập vào con người mà không gây hại cho anh ta. Nhưng một người không được ăn từ Cây biết điều thiện và điều ác, không được chiếm đoạt nó cho mình, đưa vào trong mình những gì không được dành cho việc đó. Ra – cái ác – chỉ tồn tại trong tiềm năng – cho đến khi Adam biến nó thành ahol, thức ăn của mình, chiếm đoạt nó cho mình. Theo nghĩa này, khi ăn từ Cây tri thức, Adam đã biết đến điều ác.

St 2:17

Ume’ets hada’at tov vara lo tochal mimenu ki beyom acholcha mimenu mot tamut.

But from the Tree of Knowledge of good and evil, do not eat, for on the day you eat from it, you will definitely die.’

nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.”

nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.

Adam đã được nói: lo tochal mimenu – không ăn từ nó. Thực hiện điều cấm này là tốt, tov. Phá vỡ nó là xấu, ra. Adam đã “nhận biết” điều gì mới, khi vi phạm Lệnh cấm của Chúa Trời? Chẳng gì cả. Hay đúng hơn, chỉ những thứ xảy ra khi lệnh của Chúa Trời bị vi phạm. Cây tri thức là cây thử thách về điều thiện và điều ác.

Trong Torah có một số luật khó hiểu đối với tâm trí, không được bảo đảm bằng bất kỳ sự biện minh duy lý nào. Các luật ăn kiêng thuộc loại này. Sự cấm đoán liên quan đến Cây Tri thức là đặc trưng: nó cũng là một điều cấm về ăn. Điều quan trọng là điều răn của Chúa Trời ban cho Adam mâu thuẫn với mọi cảm giác của con người. Nhưng nó vẫn phải được tuân thủ. Có thể nói, đây là một dạng điều răn đầu tiên của Thượng Đế đối với con người.

Và Đức Chúa là Thiên Chúa đã cảnh báo Adam về những gì sẽ xảy ra nếu vi phạm điều răn đầu tiên này, khi ăn từ Cây cấm.

“… ki (vì) be-yom (vào ngày) akhaleh mimenu (ăn từ nó) – mot tamut”

“Mot” là cái chết, “tamut” – khả năng tử vong. Một số dịch giả, để củng cố ý nghĩa bằng văn phong, nhấn mạnh: “sẽ chết vì cái chết.” Nhưng, bởi vì Adam ăn “từ nó” và đã không chết vào cùng ngày (beyom), mà sống 930 năm, nên những người khác cẩn thận dịch thành: “sẽ trở thành người phàm” (không còn bất tử – ND). Sau khi ăn từ Cây tri thức, con người đã tiếp nhận cái chết vào trong mình, trở thành phàm nhân.

Nhưng, liệu trước đó Adam có bất tử không? Theo nghĩa đen của từ này, theo nghĩa cuộc sống vĩnh cửu, thì không. Con người được tạo ra và đặt trong Vườn Eden để làm một công việc nhất định và trong suốt thời gian của công việc này – trong tất cả mười Ngày Sáng Thế mà công việc đó đã được tính. Sau khoảng thời gian này, tất cả các câu hỏi của chúng ta liên quan đến Adam sẽ vô hiệu. Có thể nói rằng Adam, trong khi bất tử, lại không vĩnh cửu. Cái chết không được đưa vào trong sự tồn tại của anh ta ở Eden. Nó đã vào cùng với “thức ăn” từ Cây cấm. Điều đó hoàn toàn không có nghĩa là Adam bị loại khỏi công việc được định sẵn trong Những Ngày Sáng thế. Anh ta sẽ phải hoàn thành nó, nhưng hoàn thành theo một cách khác – như một người phàm.

Sự chết trong Tự nhiên là sự thay đổi thế hệ. Sự chết của con người là sự tách rời linh hồn của anh ta khỏi cái chứa đựng nó, cái mà trong đó linh hồn tồn tại – sự tách rời linh hồn khỏi thể xác tự nhiên. Đây là một dạng sống đặc biệt của linh hồn: không liên tục, mà tồn tại trong một chuỗi những lần “hóa thân” của linh hồn, sự tách rời và đoàn tụ của nó với thể xác. Đối với con người, việc trở thành phàm nhân nghĩa là hoàn thành mục đích lao động của mình trong sự rời rạc của cuộc sống tự nhiên.

Cái chết là sự hủy diệt của cuộc sống như vốn có. Cái chết của linh hồn thì là sự tan rã hoàn toàn của linh hồn. Cái chết của cơ thể là sự hủy diệt của nó. Adam được tạo ra từ afar, từ vật chất mỏng, trong đó linh hồn của anh ta trú ngụ. Khi sống trong Eden, trong một không gian khác của Sự sống, anh ta đã hấp thụ toàn bộ lợi ích và năng lượng của Eden. Vậy “chết” có nghĩa là gì đối với anh ta? Trước hết, là không tồn tại, không sống trong Eden. Từ những sự kiện tiếp sau, có thể thấy rằng những cư dân đầu tiên của khu Vườn đã không hiểu rõ những gì Đức Chúa là Thiên Chúa nói với họ.

3

Sau khi cảnh báo con người về sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn liên quan đến cây trong Vườn, Đức Chúa là Thiên Chúa bắt đầu các bước tiếp theo để hoàn thiện con người đến trạng thái cần thiết.

St 2:18

Vayomer Adonay Elohim lo-tov heyot ha’adam levado e’eseh-lo ezer kenegdo.

God said, ‘It is not good for man to be alone. I will make a compatible helper for him.’

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.”

Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.

“Đức Chúa là Thiên Chúa phán: Không tốt (lo tov) trở thành (heyot) con người một mình”

Cái gì đây: trong sự sáng tạo con người, một khiếm khuyết đã được phát hiện? Không. Không thể có ra với Thiên Chúa. Chúa Trời không sửa chữa sản phẩm của Ngài và không phá vỡ nó, mà đưa nó đến sự hoàn hảo. Cho đến nay, trong con người chỉ có cái đã hoàn toàn tương ứng với Ý định của Ngài và được hoàn toàn thực hiện bởi Ngài – cái tốt, tov, và cái chưa hoàn toàn tương ứng với Ý định của Ngài – cái không tốt, lo tov. Đối với sự hình thành của con người trong Eden và công việc được giao cho anh ta, sẽ không tốt nếu anh ta chỉ có một mình. Đây là khu vực mà anh ta cần được hoàn thiện!

“Hãy để chúng ta làm (eseh) cho anh ta sự giúp đỡ (lo ezer), ngược lại anh ta (kenegdo)”

Ezer là người đảm nhận thực hiện một lĩnh vực hoặc một bộ phận công việc nhất định; và behemah là trợ giúp hay cái đỡ chân, ezerbama. Nhưng không phải ezer kenegdo.

Một ý nghĩa của kenegdo là “đối mặt với nhau”, ở bên nhau và làm công việc cùng nhau, nhưng mỗi người làm việc của mình, cùng đứng trên một hàng, mặc dù ở những điểm khác nhau trên hàng đó. Một ý nghĩa khác của kenegdo là trở thành một đối tác, có quyền và sức mạnh chống lại đối tác khác, phản đối hành động của anh ta, ngăn chặn hoặc sửa chữa anh ta. Ezer kenegdo là một đối tác gắn liền không thể tách rời và trọn vẹn trong công việc và cuộc sống. Con người cần một “sự giúp đỡ” như vậy, luôn ở bên anh ta, mặt đối mặt, ở bên anh ta trong sự thống nhất của các linh hồn và trong sự thống nhất của các nội dung tinh thần khác nhau.

St 2:19

Vayitser Adonay Elohim min-ha’adamah kol-chayat hasadeh ve’et kol-of hashamayim vayave el-ha’adam lir’ot mah-yikra-lo vechol asher yikra-lo ha’adam nefesh chayah hu shemo.

God had formed every wild beast and every bird of heaven out of the ground. He [now] brought [them] to the man to see what he would name each one. Whatever the man called each living thing [would] remain its name.

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế.

Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên các loài thú đồng, các loài chim trời, rồi dẫn đến trước mặt A-đam đặng thử xem người đặt tên chúng nó làm sao, hầu cho tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó.

“Và hình thành (yitser – với một chữ “yod “) Đức Chúa là Thiên Chúa từ đất (adam) mọi thú dữ và mọi loài chim trên trời và mang đến cho con người…”

Vào Ngày Sáng thế Thứ năm, động vật được tạo ra ở cấp độ Briah (sáng tạo ra) và được làm ra ở cấp độ Assiya (làm thành). Bây giờ chúng được hình thành ra – ở cấp độ Yiesira (hình thành), dành riêng để tồn tại ở Eden. Chúng được hình thành từ “đất” (có lẽ cùng một loại đất mà từ đó các cây trong Vườn mọc lên) cho một nhiệm vụ cụ thể: mang chúng đến trước con người đã ở trong Vườn Eden. Để làm gì? Và “mang” theo nghĩa nào?

“… và dẫn đến để con người xem (mir’ot) để gọi cho nó (mah yikra lo) …”

“Cho nó” là cho ai?

“… và mọi thứ mà con người linh hồn sống (nefesh haya) gọi cho nó là tên nó (hu shemo)”

Ngữ pháp của câu kinh rất phức tạp. Nhưng ngay lập tức, rõ ràng ở đây nói về việc tạo ra ngôn ngữ của con người. Ngôn ngữ là một trong những công đoạn hoàn thiện của con người trong Vườn Eden. Và đó là cách ngôn ngữ được tạo ra. Đức Chúa là Thiên Chúa hình thành các loài động vật ở cấp độ Yetsira, nghĩa là, tiết lộ bản chất của mỗi chúng. Sau đó, Ngài đưa bản chất của động vật vào cơ sở và cội nguồn của Sự sống trần gian – vào Eden, và mang chúng đến với con người. Con người nhìn thấy các bản chất động vật này trước mặt mình thông qua “tầm nhìn” của mình và đặt tên tương ứng với chúng. Shem (tên) gắn với khái niệm sham (đó). Đặt tên là tìm vị trí chính xác của bản chất của một sự vật trong cơ sở tinh thần của Thế giới, theo một nghĩa nào đó, “đặt ở đâu đó.” Những bản chất động vật được Thượng đế mang đến Eden cho con người, và được anh ta (con người) đặt ở đó – được gọi tên bởi con người.

Con người nhìn và nói tên. Khả năng “nhìn thấy” bản chất là một chức năng quan trọng của con người trong Vườn Eden. Ngay cả về những cây trong Vườn, trước tiên người ta nói rằng chúng bắt mắt, sau đó mới là chúng rất tốt để ăn. Việc “nhìn thấy” của con người trong vườn Eden là công việc của trí óc anh ta. Nhìn và đặt tên là một trong những nhiệm vụ chính của con người trong Vườn. Đây là công việc đặc biệt của anh ta: xem, nhận thấy, gọi – đặt tên. Toàn bộ hoạt động nhận thức của trí não con người có thể được mô tả là đặt tên cho các thực thể và hiện tượng. Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là kết quả của quá trình lĩnh hội. Con người ghi dấu kiến ​​thức của mình trong các tên gọi. Và bất cứ điều gì anh ta gọi đều trở thành một cái tên.

Tuy nhiên, Thiên Chúa mang đến cho con người bản chất của các loài vật không chỉ để con người nhìn thấy và đặt tên cho chúng. Chính Thiên Chúa cần “xem”, con người sẽ gọi những “linh hồn sống” do Ngài tạo ra như thế nào. Thiên Chúa cần biết điều này. Đặt tên cho động vật, tạo ra ngôn ngữ, nghĩa là con người làm việc cho Chúa Trời, hoàn thành Nhiệm vụ của Ngài.

Trong câu 2:19 có một ý khó nắm bắt, liên quan đến ý nghĩa của các từ yave (đã mang đến) và yikra (đặt tên). Midrash giải thích rằng những bản chất được hình thành trong động vật là do Thượng đế thúc đẩy vào phạm vi của con người – “mang đến” cho anh ta là theo cả nghĩa này. Còn đặt tên, đặt tên cho cái bản chất được mang đến cho mình nghĩa là “kêu gọi nó vào mình”, đưa bản chất động vật của nó vào trong con người mình.

Công việc nhận biết và đặt tên được giao cho con người trong Eden. Nhưng anh ta chỉ có thể thực hiện việc này không bằng cách nào khác ngoài việc tìm hiểu bản thân, thông qua sự nhận biết trong mình. Mỗi con vật trong bản chất Eden của nó là một sức mạnh động vật nào đó, một khía cạnh của cái linh hồn động vật chung. Con người trong Khu vườn hấp thụ vào mình toàn bộ sức mạnh động vật. Và do đó, khi nhìn thấy, có thể nhận ra ở con vật cái phẩm chất tinh thần cơ bản ở trong nó, cái đã được “mang đến” với anh ta và được anh ta “đặt tên”.

Theo Ý muốn của Chúa Trời, con người tập hợp lại và chứa đựng trong bản thân tất cả các hình thành riêng biệt của linh hồn động vật. Vì vậy, linh hồn động vật của con người, nefesh của anh ta, được làm giàu bởi tất cả những phẩm chất và thuộc tính của linh hồn của toàn bộ thế giới động vật. Đây là một giai đoạn khác trong quá trình hình thành con người ở Eden – giai đoạn hoàn thiện nefesh của anh ta, tạo ra đời sống tinh thần đa dạng của linh hồn động vật của con người, hình thành tính cách của anh ta.

Chúng ta đã lưu ý rằng, việc mô tả các tính cách của con người thông qua các thuộc tính tinh thần của động vật không phải là không hợp lý. Con người đầu tiên biết thế giới động vật một cách trực tiếp, gần gũi, trong sâu thẳm tâm hồn mình. Và linh hồn động vật của con người đầu tiên, nefesh của anh ta, không phải là linh hồn thấp kém hơn, như bây giờ chúng ta cảm nhận nó trong mình. Con người được Thượng đế tạo ra từ hai khởi đầu xứng đáng như nhau. Nefeshneshama trong Adam không phải là đối nghịch nhau, chúng khác nhau và bình đẳng, giống như hai con mắt trên một khuôn mặt.

St 2:20

Vayikra ha’adam shemot lechol-habehemah ule’of hashamayim ulechol chayat hasadeh ule-Adam lo-matsa ezer kenegdo.

The man named every livestock animal and bird of the sky, as well as all the wild beasts. But the man did not find a helper who was compatible for him.

Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.

A-đam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần A-đam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết.

Tiếp theo phần văn bản (câu 2:20) con người đặt tên cho tất cả các loài động vật được mang đến cho anh ta. Nhưng anh ta cũng đặt tên cho cả behemah, những con vật nuôi trong nhà, mà không được đề cập trong câu trước. Điều này là dễ hiểu: linh hồn của behemah ngay từ đầu đã được tạo ra cho con người, do đó không cần phải “mang” chúng đến cho anh ta. Từ đó suy ra, linh hồn của các loài động vật (các loài sống cho mình, chứ không phải cho con người) được mang đến cho Adam trong Vườn Eden, trong quá trình hình thành đã được điều chỉnh cho phù hợp với con người, phù hợp với nefesh của con người. Đây là cách mà tâm hồn và tính cách của con người được tạo ra. Kết quả rất quan trọng. Nhưng vẫn còn mục tiêu chính của quá trình này là tìm ezer kenegdo cho con người, kẻ trợ giúp phù hợp với anh ta.

Việc ghép đôi các động vật được hình thành riêng biệt chỉ có ý nghĩa chức năng chứ không phù hợp cho sự thống nhất về mặt tinh thần. Với tư cách đối tác, con người cần một tâm hồn tự do, cùng hành động với anh ta, “mặt đối mặt” và khi cần thiết, “đứng lên chống lại anh ta”, khắc phục anh ta, sửa chữa anh ta. Ở một khía cạnh nào đó, đó phải là một thực thể người cao hơn bản thân anh ta.

St 2:21

Vayapel Adonay Elohim tardemah al-ha’adam vayishan vayikach achat mitsal’otav vayisgor basar tachtenah.

God then made the man fall into a deep state of unconsciousness, and he slept. He took one of his ribs and closed the flesh in its place.

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào.

Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp thịt thế vào.

“Và Đức Chúa là Thiên Chúa cho ập xuống (vayapel) một giấc ngủ say (tardemah) trên con người, và con người thiếp đi, lấy một bên sườn của anh ta và đóng xác thịt (basar) vào dưới đó”

Basar là thứ mà thông qua đó Thế giới giao tiếp với linh hồn, và linh hồn nhận thức và cảm nhận Thế giới. “Xác thịt” trong tiếng Do Thái có cùng gốc với từ “thông điệp”. Khi xác thịt tương ứng với mục đích của nó, với linh hồn của nó, thì nó thông báo, công bố, đưa tin mừng ra bên ngoài rằng linh hồn đang như thế nào. Cũng qua xác thịt, Thế giới tuyên bố với linh hồn về chính nó. Như ta thấy, chính sự khôn ngoan của ngôn ngữ nói lên nhiệm vụ của sự vật trong Sáng thế.

Khái niệm basar lần đầu tiên được sử dụng ở đây, khi tạo ra người nữ. Le lói ý nghĩ rằng, tính xác thịt của con người đã được tạo ra chính xác vào lúc này. Đây là một giai đoạn quan trọng khác trong việc hoàn thiện con người trong phòng thí nghiệm của Vườn Eden.

Con người kép nam và nữ ban đầu được tạo ra từ afar mi adama – từ “phần bay hơi” của Trái đất, từ vật chất đất mỏng, trong đó chứa linh hồn sống. Một linh hồn như vậy không có giao tiếp với Thế giới của chúng ta. Và con người như vậy không thể sống ở đâu khác ngoài Vườn Eden. Bây giờ afar đã được chuyển thành basar, do đó con người đã có thể giao tiếp với Thế giới và tồn tại trên Thế giới. Điều đáng chú ý là xác thịt được tạo ra cùng lúc với người nữ. Có thể cùng lúc đó, xác thịt của thế giới động vật được hình thành – xác thịt của các loài sống được tạo ra.

St 2:22

Vayiven Adonay Elohim et-hatsela asher-lakach min-ha’adam le’ishah vayevi’eha el-ha’adam.

God built the rib that he took from the man into a woman, and He brought her to the man.

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-đam làm nên một người nữ, đưa đến cùng A-đam.

Tiếp theo, câu 2:22, bắt đầu với một khái niệm xa lạ với chúng ta, định nghĩa hành động mới của Chúa Trời trong Sáng thế: yiben. Nó là gì? Hành động yiben không phải là một hành động sáng tạo ra (briya), không phải là một hành động hình thành ra (yetsera), không phải là một hành động làm nên (asiya). Đây là một cấp bậc hoàn toàn mới và cao cấp của hành động của Thiên Chúa. Đấng Toàn năng đã “xây dựng” một người phụ nữ, thực hiện yiben – từ gốc ben, nghĩa là con trai. Đây là một hành động sáng tạo mới và cao cấp – sáng tạo thông qua việc sinh đẻ.

Người đàn ông ở Eden có lĩnh vực làm việc của riêng mình – trồng trọt. Người phụ nữ có một lĩnh vực làm việc khác – gìn giữ. Và người phụ nữ được “xây dựng” – như một tòa nhà, như một nơi chứa – để sinh ra và gìn giữ ben, con trai. Hạt giống của “con trai” do đàn ông sản sinh ra, nhưng lại được giao cho một phụ nữ mang và sinh nở trên Thế giới. Người nữ, với tư cách là sự sáng tạo tiếp theo, cao hơn về mặt tâm linh so với người trước đó, adam. Cô ấy trưởng thành sớm hơn người đàn ông. Cô ấy nhìn lên, người đàn ông nhìn xuống. Và nhiều thứ khác.

Linh hồn phụ nữ không chỉ là một hình thái linh hồn con người. Đây là linh hồn con người có khả năng sinh sản, có khả năng sinh ra một sinh vật tâm linh cao hơn mình – “con trai”.

Từ tsela, theo truyền thống được dịch là “sườn”, mang một ý nghĩa như vậy trong ngôn ngữ, nhưng nó chỉ là thứ yếu và không được sử dụng ở bất cứ đâu trong Torah. Tsela là “cạnh bên”, có nghĩa là “nơi ẩn náu”. Người nữ được tạo ra từ một “cạnh” cụ thể nào đó (với trạng từ xác định), ẩn và sâu thẳm, của con người ban đầu. Chúa Trời đã “xây dựng lại” cạnh đó để người nữ có thể sinh con – xây dựng lại thành người nữ – “và đưa cô ấy đến với người đàn ông”, không mang đến ngay, mà sau một thời gian, khi con người cảm nhận được toàn bộ chiều sâu nỗi cô đơn của mình. Và anh ta đã đón nhận cô ấy vào mình với sự phấn chấn, nhận ra cô ấy trong chính mình, và nói:

St 2:23

Vayomer ha’adam zot hapa’am etsem me’atsamay uvasar mibesari lezot yikare ishah ki me’ish lukacha-zot.

The man said, ‘Now this is bone from my bones and flesh from my flesh. She shall be called Woman (Ishah) because she was taken from man (ish).’

Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.”

A-đam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có.

Ở đây, lần đầu tiên con người (adam) có được một cái tên riêng: ha Adam.

“Và người này sẽ được gọi là “vợ” (isha), bởi vì (zot) được lấy từ một người đàn ông (ish)”

Adam cho cô ấy một cái tên. Và qua đó gắn rễ bản chất của cô ấy trong Eden. Có vẻ như cái tên isha đã được tạo ra theo quy luật từ nguyên bình dân, từ từ ish – người chồng. Nhưng không phải. Ishisha có nguồn gốc từ tiếng Do Thái khác nhau. Và điều này, nhân tiện, cho thấy rằng Adam trong Gan Eden đã nghĩ và nói chính xác là bằng tiếng Do Thái.

Ish – từ gốc ush – quyền lực, dòng chảy của Sự sống; một từ gần gũi là esh – lửa.

Isha – là từ từ nasha (số nhiều của isha sẽ là như vậy: nashim, các phụ nữ). Ý nghĩa của nasha (nasa) là tiếp nhận, nhưng không thụ động, mà là tiếp nhận và yêu cầu, tiếp nhận để tiếp tục. (So ​​sánh với từ isharit – chủ nợ, là người đưa cho và đòi hỏi).

Ishisha là một cặp, nghe là đủ thấy, nhưng trong những từ này chứa đựng ý nghĩa và mục đích của người đàn ông và ý nghĩa và mục đích của người phụ nữ. Cái tên isha có nghĩa là cô ấy nhận được ish từ sức mạnh tuôn ra, nhưng nhận nó không phải để tự mình chiếm lấy, mà là để, sau khi yêu cầu, nhận lấy, cưu mang, hoàn thành trong mình.

Các từ ishisha được viết khác nhau. Trong từ ish có một chữ cái thuần nam tính yod; trong từ isha có một chữ cái thuần nữ tính hey. Cùng với nhau, hai chữ cái này trong lời nói của chúng tạo nên cái Danh của Chúa Trời, mà theo lời dạy của các nhà hiền triết Do Thái, hiển hiện trong Thế giới này: Shekhinah.

Ish mang trong mình yod của nó, hạt giống của khởi đầu tuôn trào và mục đích. Isha mang trong mình hey của nó, là khởi đầu của mang thai và sinh nở. Khi họ hợp nhất với nhau, kết nối “mặt đối mặt”, Thiên Chúa hiển hiện trong họ. Nhưng nếu yod nam và hey nữ hợp nhất không phải nhân danh Thiên đàng, thì một ngọn lửa bùng lên giữa họ, esh, ngọn lửa nuốt chửng thiêu rụi họ. Điều này được hiểu cả ở mức độ huyền bí và cuộc sống hàng ngày.

Bất kỳ sự phân chia nào trong Sáng thế, bao gồm cả sự phân chia thành nam và nữ, đều cần thiết để kết nối.

Các khởi đầu nam và nữ hiện diện trong toàn bộ quá trình Sáng thế. Và con người trong Ý nghĩ của Thiên Chúa được tạo ra như zachar u-nekeva (St 1: 27), người nam và người nữ cùng nhau. Adam được chia trong Eden thành ishisha. Đây đã là một cấp độ khác về trạng thái của con người trong quá trình Sáng thế. Người nữ được lấy từ người nam – lấy cô đó (zot) – chính là cô ta, mà trong sâu thẳm con người của mình có thể thực hiện việc hợp nhất nam (Thiên Chúa) và nữ (Thế giới). Kết nối này là một trong những giai đoạn cuối cùng của quá trình Sáng thế.

Người nam (adam) được lấy từ Trái đất để làm việc trong Vườn Eden. Người nữ được lấy từ con người trong Eden để làm công việc có địa vị tinh thần còn cao hơn, Isha – nhận hạt giống từ ish và thực hiện hạt giống này trong mình: tạo ra trong mình và sinh ra Thế giới một người nam mới (ish) – một “con trai”. Isha là “người sinh con trai”, là người mà với sự giúp đỡ của họ, một hành động mới được thực hiện trong Sáng thế – sáng tạo thông qua sinh đẻ. Với việc tạo ra người nữ, Sáng thế bước vào giai đoạn tiếp theo.

St 2:24

Al-ken ya’azov-ish et-aviv ve’et imo vedavak be’ishto vehayu levasar echad.

A man shall therefore leave his father and mother and be united with his wife, and they shall become one flesh.

Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.

Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt.

“Và do đó (al ken) chồng (ish) của cha và mẹ của anh ta sẽ bỏ đi và gắn bó (davak) với vợ mình, và họ sẽ trở thành một thịt (lebasar echad)”

Câu này nói về cái gì? Về những người con trai, sau khi lấy vợ, tách khỏi cha mẹ về mặt linh hồn? Nhưng điều này đâu có liên quan gì đến những người đầu tiên. Sau khi họ “sa ngã”, chúng ta không còn sống trong Vườn Eden, và không thực hiện cái nhiệm vụ mà họ đã được tạo ra để làm, và được câu 2:24 chỉ ra.

Mức độ cao nhất của mối quan hệ giữa con người với Chúa Trời được gọi là dvekut – sự bám víu của con người vào Ngài. Dveka là một trong những cảm xúc cao nhất của con người, dẫn đến sự thống nhất tinh thần sâu sắc của những người trải nghiệm nó. Và câu kinh nói cho chúng ta biết rằng, thứ nhất, sự kết hợp giữa ishisha phải diễn ra thông qua dveka, và thứ hai, ngay sau khi mối liên hệ này được thực hiện, nó sẽ trở thành davak, như thế họ “trở nên một thịt”, nghĩa là trở nên một sinh thể mới, do họ cùng sinh ra, sở hữu một xác thịt duy nhất.

Từ ishisha ở trạng thái davak, sẽ được sinh ra (hay nói đúng hơn: sẽ phải sinh ra) “một xương thịt thống nhất”, một sinh thể mới. Nhưng đây không phải là “hạt giống”, mà là “quả”, không phải sinh sản giống theo hình tượng, mà là sinh ra người ở bậc cao hơn. Đây là nhiệm vụ chính của ishisha trong Eden. Đây cũng là mục đích chính của việc sáng tạo ra họ và đưa vào Vườn.

Để thực hiện mục tiêu này, nhiệm vụ này, một ish tương lai nào đó sẽ rời xa bố mẹ để thực hiện davak với vợ và sinh ra ben, con trai. Điều này rốt cuộc phải xảy ra bởi vì (al ken) Isha đã được lấy từ anh ta để thực hiện davak, rằng cô ta được tạo ra như một người mang và sinh “con trai”.

St 2:25

Vayihyu shneyhem arumim ha’adam ve’ishto velo yitboshashu.

The man and his wife were both naked, but they were not embarrassed by one another.

Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.

Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ thẹn.

“Và họ khỏa thân (arumim), Adam và vợ, và không hề xấu hổ (yitboshashu)”

Tại sao phải xấu hổ khi cơ thể của họ là quần áo cho linh hồn nguyên thủy của họ. Từ boshesh, xấu hổ, bắt nguồn từ gốc có nghĩa là “thất vọng”. Xấu hổ là một kiểu thất vọng về bản thân, nảy sinh từ sự không tương thích giữa hình ảnh biểu hiện ra của một người và hình mẫu cao hơn trong bản thân họ. Xấu hổ luôn là về một điều gì đó thấp kém trong bản thân, nhìn từ quan điểm cao hơn. Vì vậy, chính cảm giác xấu hổ cho thấy sự tồn tại của cái cao hơn và cái thấp hơn. Trong người phàm, có cả linh hồn Thần thánh cao hơn, neshama, và linh hồn động vật thấp hơn, nefesh. Nhìn thấy linh hồn thấp kém của mình (hoặc sự thể hiện của nó bằng xác thịt) từ quan điểm của linh hồn cao hơn, con người trần gian cảm thấy xấu hổ. Nhưng với ishisha trong Eden thì không phải vậy.

Chúng ta đã nói rằng, trạng thái tinh thần ban đầu của neshamanefesh trong một người là như nhau. Không có linh hồn nào cao hơn hoặc thấp hơn. Xác thịt của con người, basar của anh ta, là thông điệp của nefesh ra Thế giới. Trong Vườn, con người không có lý do gì để xấu hổ về xác thịt trần truồng của mình. Sự xấu hổ là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy sự cân bằng bên trong của nefeshneshama đã bị phá vỡ. Khi Adam và Eva xấu hổ về chính mình, điều này có nghĩa là linh hồn động vật, nefesh của con người, đã trở thành linh hồn thấp hơn …

Thoạt nhìn, dường như có một sự lặp thừa kỳ lạ trong câu 2:25. Ở đó nói rằng trần truồng “cả hai” và sau đó thêm: “Adam và vợ anh ta”. Để làm gì? Chắc không phải là phong cách hành văn. Đối với những người biết cách đọc kinh Torah, đây là gợi ý rằng họ đã như vợ chồng và không hề xấu hổ. Vâng, nếu không thì làm sao có thể nói về “cha mình” và “mẹ mình”? Vì vậy, “sự sa ngã của Adam” hoàn toàn không liên quan đến việc anh ta, trong ngôn ngữ Kinh thánh, “ăn ở” với vợ mình. Chính vì điều này, họ đã được đặt trong Vườn Eden. “Eden”, như chúng ta đã nói, là nơi thụ thai.

1 thought on “Giải nghĩa Kinh Thánh. Chương 1.4 – Trong Vườn của Eden

  1. Pingback: Giải nghĩa Kinh Thánh. Chương 1.1 – Bóng tối và Ánh sáng | Phan Phuong Dat

Leave a Reply