C. Lévi-Strauss. Cấu trúc luận và Sinh thái (2/4)

Bài báo này là bản ghi lại một bài giảng của C. Levi-Strauss bằng tiếng Anh tại Hoa Kỳ vào năm 1972 cho sinh viên tại Đại học Barnard. Ấn bản đầu tiên: Structuralism and Ecology: Geedersleeve lecture, delivered at Barnard College, March 28 // Barnard Alumnae, Spring 1972, p. 6—14. Tái bản năm 1973 (bằng tiếng Anh) tại Paris; bản dịch sang tiếng Pháp được Lévi-Strauss đưa vào tuyển tập các bài báo Le regard eloigne. Paris: Plon, 1983.

Bản dịch này bỏ qua trang đầu tiên của bài báo, có tính chất giới thiệu bài giảng. Về tư liệu, bài viết có những điểm giao thoa với tác phẩm ” La Voie des Masques The Way of The Mask ” (xuất bản 1975), và về vấn đề thì  rất gần với “La Pansee sauvage” – liên quan đến “những yếu tố giới hạn (restreints) của tâm trí.”

Người da đỏ Heiltsuk, hay còn gọi là Bella-bella, có quan hệ gần gũi với những người hàng xóm phía nam của họ trên bờ biển British Columbia – Kwakiutl. Trong cả hai nhóm, người ta đều kể câu chuyện về một đứa trẻ – trai hay gái – bị bắt cóc bởi một yêu tinh siêu nhiên, thường là nữ, được người Bella-bella gọi là Kawaka, và người Kwakiutl gọi là Dzonokwa. Cũng như trong câu chuyện của người Kwakiutl, người Bella-bella kể rằng đứa trẻ trốn thoát được, còn yêu tinh ăn thịt người thì bị giết hoặc phải bỏ chạy. Của cải mà nó tích cóp được rơi vào tay người cha của nhân vật và ông ta sẽ phân phát nó. Điều này giải thích nguồn gốc của potlatch (hoạt động phô trương giàu có bằng cách tặng hoặc tiêu hủy của cải của người da đỏ châu Mỹ – ND).

Đôi khi các phiên bản Bella-bella khác với các phiên bản Kwakiutl ở một chi tiết thú vị. Có một người trợ giúp siêu nhiên dạy cô gái hoặc cậu bé cách thoát khỏi yêu tinh: khi yêu tinh, như thường lệ, đi nhặt hàu lúc thủy triều xuống, thì đứa trẻ cần thu thập vòi hàu – yêu tinh không ăn phần này của hàu mà ném đi; đứa trẻ cần đặt những cái vòi này trên đầu ngón tay của mình và phủi chúng vào yêu tinh, khi đó nó sẽ sợ hãi đến mức rơi trở lại vực sâu và chết.

Tại sao mà một yêu tinh ăn thịt người ghê gớm lại sợ một thứ vô hại và tầm thường như vòi hàu – những chiếc que nhỏ mềm mại mà qua đó hàu hút nước vào và thải ra? (Những chiếc vòi này cũng khá tiện dụng để cầm một con hàu hấp khi nhúng nó vào bơ tan chảy, đặc sản nổi tiếng của một nhà hàng gần Quảng trường Thời đại, nơi tôi sống ở New York.) Huyền thoại Bella-bella thì không có chi tiết này. Để giải quyết vấn đề, chúng ta phải áp dụng quy tắc bất biến của phân tích cấu trúc: khi một phiên bản thần thoại chứa một chi tiết có vẻ bất thường, chúng ta nên tự hỏi bản thân xem phiên bản này có mâu thuẫn với phiên bản khác thường cách không xa nó hay không.

Các thuật ngữ “lệch lạc” và “chuẩn” ở đây nên được hiểu một cách tương đối. Phiên bản được chọn để đối sánh sẽ được gọi là “trực tiếp”, và trong tương quan với nó, các phiên bản khác sẽ là “đảo ngược”. Nhưng ta cũng có thể tiến hành theo hướng khác, ngoại trừ một số trường hợp nhất định (các ví dụ được dẫn trong các tập Mythologiques của tôi), trong đó sự biến đổi chỉ có thể xảy ra theo một hướng nhất định. Trong trường hợp này, phiên bản “trực tiếp” rất dễ được định vị. Nó được tìm thấy ở những người Chilcotin (Tsilhqotʼin), sống ở phần đất liền xa biển, về phía đông của dãy núi bờ biển. Nhưng họ rất quen thuộc với người Bella-bella và thường đến thăm họ ở phía bên kia dãy núi. Không nghi ngờ gì, ngôn ngữ của họ là khác nhau, ngôn ngữ Chilcotin thuộc họ Athabaskan. Còn trong tất cả các khía cạnh khác, người Chilcotin giống như các bộ lạc ven biển, mà họ vay mượn từ đó nhiều đặc điểm của tổ chức xã hội của mình.

Chúng ta biết được gì từ huyền thoại Chilcotin? Nó nói rằng một đứa trẻ sơ sinh – một cậu bé suốt ngày khóc (giống như một cô bé trong một phiên bản Bella-bella), bị bắt cóc bởi Cú, một phù thủy quyền năng. Ông ta đối xử tốt với cậu bé, và cậu lớn lên, bằng lòng với số phận. Nhiều năm sau, khi bạn bè và cha mẹ tìm ra chỗ cậu ở, cậu đã từ chối đi theo họ. Cuối cùng thì cậu cũng bị thuyết phục. Khi Cú truy đuổi nhóm người nhỏ đó, cậu đã khiến nó sợ hãi bằng cách đeo sừng của dê núi lên ngón tay và vẫy chúng như càng. Cậu mang theo tất cả những chiếc vỏ ốc dentalia (ốc biển có vỏ đơn màu trắng nhỏ, trông giống như những chiếc ngà voi tí hon), mà Cú là chủ nhân duy nhất cho đến thời điểm đó. Chính bằng cách này, người da đỏ đã có được những chiếc vỏ ốc này, là thứ quý giá nhất mà họ sở hữu.

Vì phần còn lại của thần thoại Chilcotin không liên quan đến chủ đề thảo luận của chúng ta, tôi sẽ bỏ qua nó, cũng như các phiên bản của người Bella-coola nói tiếng Salish, là hàng xóm của cả Bella-bella lẫn Chilcotin. Trong các phiên bản này, chi tiết sừng dê núi được bảo tồn, còn thần thoại Bella-bella thì được biến đổi, và kẻ ăn thịt người mà Bella-coola gọi là Sni-nik có những đặc điểm hoàn toàn trái ngược với kẻ ăn thịt người trong thần thoại Bella-bella và Kwakiutl. Chính từ quan điểm đặc biệt này, ta sẽ phân tích các phiên bản.

Chúng ta hãy giới hạn trong việc xem xét huyền thoại Bella-bella và Chilcotin, bởi vì chúng được tổ chức theo cùng một cách và chỉ đảo ngược những hàm ý thích hợp được gán cho mỗi thành phần. Cậu bé khóc của Chilcotin, cô bé khóc trong phiên bản phát triển hơn của Bella-bella, bị bắt cóc bởi một sinh vật siêu nhiên: trong một trường hợp là một yêu tinh dạng người, trong trường hợp kia là một phù thủy nhân từ trong hình dạng một con chim. Để thoát khỏi kẻ bắt cóc, nhân vật nam hoặc nữ đều sử dụng chiến lược như nhau: họ gắn móng vuốt nhân tạo vào ngón tay của mình. Nhưng những móng vuốt này hoặc là sừng dê hoặc là vòi hàu — nói cách khác, hoặc là thứ gì đó cứng và có thể gây hại đến từ đất liền, hoặc thứ gì đó mềm và vô hại đến từ biển. Kết quả là ở người Chilcotin, Cú rơi xuống nước và không chết đuối, trong khi ở Bella-bella, yêu tinh rơi xuống vách đá và chết. Như vậy, sừng và vòi về bản chất là phương tiện dẫn đến đích. Nhưng chính xác thì đích này là gì? Nhân vật nam hoặc nữ trở thành chủ sở hữu đầu tiên, hoặc của vỏ ốc dentalia, hoặc những của cải thuộc về kẻ ăn thịt người. Bây giờ tất cả những dữ liệu thần thoại và nghi lễ mà chúng ta có về con yêu tinh Kawaka hay Dzonokwa, như người Kwakiutl gọi nó, chứng minh rằng tất cả của cải của nó đến từ đất liền, vì bao gồm đĩa đồng, lông thú, da thuộc và thịt khô. Trong các thần thoại khác của Bella-bella và Kwakiutl, thì cũng con yêu tinh đó – cư dân đất liền, sống ở rừng và núi – không đánh bắt cá, mà liên tục ăn trộm cá hồi của người da đỏ.

Như vậy, mỗi thần thoại giải thích về cách thức đạt được một mục đích nhất định bằng những phương tiện nhất định. Và vì chúng ta đang xem xét hai huyền thoại, trong mỗi chúng đều có một phương tiện riêng và một mục đích riêng. Đáng chú ý là một trong những phương tiện hóa ra là gần nước (vòi hàu), còn phương tiện kia gần với đất (sừng dê). Cái đầu tiên dẫn đến mục tiêu (của cải của yêu tinh) liên quan đến đất, và cái thứ hai dẫn đến mục tiêu (vỏ ốc dentalia) có tính chất biển. Kết quả là, “phương tiện nước” dẫn đến “mục đích đất” và ngược lại, “phương tiện đất” thì dẫn đến “mục đích nước”.

Ngoài ra, có những kết nối bổ sung giữa phương tiện ở một huyền thoại này với mục đích hoặc kết quả ở một thần thoại khác. Vòi của hàu – phương tiện trong thần thoại Bella-bella, và vỏ ốc dentalia – mục đích trong thần thoại Chilcotin, rõ ràng là có điểm chung, cả hai đều từ biển. Tuy nhiên, điều này lại mâu thuẫn với vai trò của chúng trong văn hóa bản địa: đối với người Chilcotin, vỏ ốc dentalia còn lâu mới là thứ quý giá nhất mà biển cả có thể cho; và huyền thoại Bella-bella thì không gán bất kỳ giá trị nào cho những cái vòi hàu, kể cả để làm thức ăn, vì yêu tinh ném chúng đi mà không ăn.

Vậy còn sừng dê núi, phương tiện trong thần thoại Chilcotin, và những của cải trần gian của yêu tinh – kết quả nhận được trong thần thoại Bella-bella, thì sao? Không giống vỏ ốc, cả hai đều thuộc về thế giới của đất liền. Tuy nhiên, sừng dê không ăn được mà được dùng để làm đồ nghi lễ – những chiếc thìa được điêu khắc và chế tác kỳ công mà chúng ta được chiêm ngưỡng trong các viện bảo tàng. Đấy là những tác phẩm nghệ thuật và đồ vật mang tính biểu tượng, chúng là của cải. Ngoài ra, là thứ không thể ăn được, những cái thìa, giống như vòi hàu, là một phương tiện thuận tiện (về mặt văn hóa, không phải thiên nhiên) để đưa thức ăn đến miệng người ăn. Nếu như, bỏ qua nguồn gốc chung, ta đặt đối lập phương tiện từ một thần thoại và kết quả từ một thần thoại khác, thì một sự song song được thiết lập giữa kết quả từ thần thoại thứ nhất và phương tiện từ thần thoại thứ hai, mà cũng có một nguồn gốc chung (từ đất liền, không phải từ biển), và là ngược lại.

Tôi chỉ vạch ra mối liên hệ biện chứng giữa hai huyền thoại của các bộ tộc lân cận – sơ đồ này có thể dễ dàng được làm phong phú và tinh chỉnh. Tuy nhiên, điều này đủ để chứng minh rằng, tồn tại những quy tắc cho phép người ta biến đổi một huyền thoại này thành một huyền thoại khác, và những quy tắc phức tạp này vẫn có thể hiểu được. Những quy tắc này đến từ đâu? Chúng tôi không phát minh ra chúng trong quá trình phân tích. Có thể nói, chúng được chiết xuất từ những huyền thoại. Sau khi được nhà nghiên cứu dựng nên, chúng xuất hiện lên bề mặt như một biểu hiện hữu hình của các quy luật chi phối luồng suy nghĩ của con người khi họ nghe những người hàng xóm kể một trong những huyền thoại của họ. Người nghe có thể vay mượn thần thoại, nhưng không phải là không bóp méo nó thông qua các hoạt động trí óc ngoài tầm kiểm soát của họ. Họ sẽ chiếm hữu nó để không cảm thấy thấp kém, và tu sửa nó trong quá trình đó, một cách có ý thức hoặc vô thức, cho đến khi nó trở thành của riêng họ. Những thao túng như vậy không xảy ra một cách ngẫu nhiên. Việc kiểm kê thần thoại châu Mỹ [1], mà tôi đã làm trong nhiều năm, cho thấy rõ ràng rằng các thần thoại khác nhau bắt nguồn từ một sự biến đổi tuân theo các quy tắc đối xứng và đảo ngược nhất định: các thần thoại phản chiếu lẫn nhau qua các trục, mà ta có thể lập danh sách chúng. Để giải thích hiện tượng này, cần phải kết luận rằng các hoạt động trí óc (mental) tuân theo các quy luật, tương tự như các quy luật trong thế giới vật lý. Những yếu tố giới hạn này, giữ các cấu tạo tư tưởng trong một phép đẳng cấu nào đó, mà trong đó chỉ một số loại biến đổi nhất định mới có thể xảy ra, là ví dụ điển hình cho loại thuyết tất định thứ nhất mà tôi đã đề cập.

1. Ấn bản bốn tập về phân tích huyền thoại của thổ dân châu Mỹ: Levi-Strauss C. Mythologiques. T. 1-4. Paris: Plon, 1964-1971.

Xem tiếp phần 3 và 4.
Dịch từ bản tiếng Nga СТРУКТУРАЛИЗМ И ЭКОЛОГИЯ.

Leave a Reply