Ngôn ngữ và ngữ cảnh – một ví dụ

Đối thoại 1 với shipper:

– Tôi đến rồi, anh ra lấy hàng đi nhé!
– Anh đang ở đâu?
– Ở FPT chứ ở đâu?
– Là ở chỗ nào?
– Chỗ nào là thế nào? FPT chứ chỗ nào! Phạm Văn Bạch!
– Ôi vậy anh nhầm rồi, tôi ở Duy Tân
– À à…

Đối thoại 2 cũng với shipper:

– Anh đứng đâu?
– Ở chỗ 3 lá cờ như anh bảo
– Tôi đang đứng ở chỗ 3 lá cờ đây, sao không thấy anh?
– Tôi ở bên này đường…

Trong đối thoại 1, người shipper tỏ vẻ khó chịu khi được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết. Trong đối thoại 2, shipper nghĩ là mình ở gần 3 lá cờ là đủ, thậm chí ở bên kia đường, mà không quan tâm đối phương có thể dễ dàng tìm thấy mình hay không.

Đây là các ví dụ khẳng định tiếng Việt là ngôn ngữ giàu ngữ cảnh (high context). Người đối thoại nghiễm nhiên cho rằng đối phương phải ở trong bối cảnh của mình, phải ngầm hiểu và tự suy ra, do đó không cần cung cấp đầy đủ thông tin. Họ sẽ thấy bị làm phiền khi được yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin.

Khác với ngôn ngữ nghèo ngữ cảnh (low context), khi mọi thông tin được thể hiện đầy đủ trong lời nói.

Bổ sung:

Tính chất giàu ngữ cảnh của văn hóa VN còn thể hiện ở khái niệm “nhìn đểu”, tức là người ta tự suy ra lời nói của đối phương chỉ qua ánh mắt của họ, rồi ra đáp trả bằng lời nói và hành động! Có vẻ hiện tượng này ko có ở các quốc gia khác. Nếu cảm thấy bị nhìn thì người ta cũng chỉ phản ứng bằng mắt chứ không đi quá.

3 thoughts on “Ngôn ngữ và ngữ cảnh – một ví dụ

  1. Anonymous

    Hi anh,

    Em xin phép chia sẻ với anh hai cái ghi chú em viết sau khi đọc post này của anh.
    –d.k.

    Note lần 1:

    Em thấy ấy cái tiếng Việt giữa người này và người kia rất khác nhau.
    Em ấn tượng mãi với một đoạn trong phim Biệt động Sài Gòn: đó là đoạn hội thoại trên điện thoại của một cô lễ tân khách sạn: ôi sao mà nó hay thế, cách dùng từ, cách đặt câu v.v.. khác hẳn cái tiếng Việt em thường nghe.
    Mỗi từ, mỗi chữ, nếu nói ra riêng rẽ thì ai cũng biết. Nhưng bảo sắp xếp các từ ấy lại với nhau cho thành một câu vừa hay, vừa khéo thì không dễ và ít người làm được. Và nếu bảo biết dùng nó trong các tình huống trong cuộc sống thì lại càng khó hơn.

    Quay trở lại với cái ví dụ anh đưa: em thấy tiếng Việt vẫn vậy; cái khác biệt, có lẽ, chỉ là cách suy nghĩ, lập luận và phản xạ của hai shipper trong tình huống đó. Liệu phản xạ của một người trước một câu hỏi có phải do ngôn ngữ mà người đó nói không? Theo em thì ngôn ngữ chỉ là một phần trong đó chứ không phải là tất cả. Giả sử hai shipper ấy cũng nói được tiếng Anh thì em nghĩ trong tình huống tương tự như vậy, nhiều khả năng hai shipper cũng sẽ nói như vậy bằng tiếng Anh. Vậy thì cũng không hẳn là do ngôn ngữ (tiếng Việt).

    Quay trở lại với cái ý về high-context và low-context của ngôn ngữ. Em chưa có dịp đọc hay tìm hiểu về chủ đề này. Nhưng có một đợt có một đoạn trong cuốn sách mà em đọc để lại ấn tượng cho em rất nhiều. Đó là một đoạn viết về thời kỳ của ông Voltaire ở bên Pháp (?), theo trí nhớ của em thì đoạn đó có nói là: một thứ tiếng nào đó (hình như là tiếng Anh) đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách trong nhiều thế kỷ để rồi nó dần trở thành rõ ràng và minh bạch như hiện nay. Trước đây, em đã nghĩ/đã cho rằng: người phương Tây họ rõ ràng và minh bạch thì là cách của họ, còn người mình, viết nhiều ngữ cảnh là theo cách của mình, theo lối của mình.
    Nhưng kể từ khi đọc đoạn em nhắc ở trên thì em thấy là: ngôn ngữ nó cũng có sự phát triển của nó. Và ngôn ngữ phương Tây, như tiếng Anh, chẳng hạn đã phát triển rất mạnh để đáp ứng nhu cầu của thời đại, của người phương Tây, của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật đòi hỏi mọi thứ phải rõ ràng, chi tiết và càng chính xác, càng ít mập mờ dễ nhầm lẫn thì càng tốt. Tiếng Anh đã cập nhật theo nhịp phát triển của khoa học kỹ thuật. Nếu mình có điều kiện tìm hiểu tiếng Anh cổ xưa thì em nghĩ chắc nó cũng sẽ khác rất nhiều với bây giờ, sẽ nhiều context hơn.
    Viết đến đây thì một câu hỏi nảy ra: High-context và low-context là một lựa chọn hay đó là năng lực/sự phát triển?
    Nếu đó là lựa chọn thì điều ấy nghĩa là: hai ngôn ngữ không khác nhau, nhưng nếu đó là sự phát triển thì điều ấy có nghĩa là có ngôn ngữ đã phát triển hơn và có ngôn ngữ chưa phát triển bằng. Sự hơn kém của ngôn ngữ này liệu có thực không? Theo em là có.
    Và em cũng thấy ngôn ngữ và sự phát triển của ngôn ngữ ảnh hưởng rất nhiều đến óc suy nghĩ của một người.
    Ở những trang đầu trong cuốn từ điển Oxford Learner’s Pocket Grammar có đoạn nói về từ, câu, đoạn (word, sentence, paragraph). Đại ý là: các từ như những viên gạch, nhiều viên gạch thì làm nên một hàng gạch (tương đương với một câu) và nhiều hàng gạch thì làm nên một mảng tường (như một đoạn)…
    Vậy, với cả một ngôn ngữ nào đó thì sao: nó sẽ làm nên gì? Theo em, nó làm nên óc suy nghĩ, óc tưởng tượng của người nói ngôn ngữ ấy.
    Nếu đó là một ngôn ngữ phong phú thì những người nói cái ngôn ngữ ấy không gặp nhiều khó khăn khi tìm từ ngữ để diễn giải các ý tưởng, đặc biệt là những ý tưởng mà gốc gác bắt nguồn từ nơi khác, ngôn ngữ khác. Trái lại,
    Nếu đó là một ngôn ngữ còn thô sơ hạn hẹp thì người nói ngôn ngữ đó khả năng cao sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi họ cần trình bày hay muốn diễn giải những ý tưởng mới lạ chưa có trong cái ngôn ngữ của họ. Họ phải vay mượn, phải tạo ra thêm nhiều từ mới.
    Một ngôn ngữ phong phú thì giống một người học ngoại ngữ não luyện, người ít khi gặp khó khăn khi sử dụng ngôn ngữ mà người ấy đã làm chủ. Còn một ngôn ngữ còn thô sơ thì như một người mới học ngoại ngữ, thường gặp khó khăn khi sử dụng và không có nhiều cách diễn giải cùng một ý. v.v…

    Viết đến đây thì một câu hỏi chợt nảy ra trong đầu em: Trong tương lai, chúng ta sẽ dạy trẻ em ở Việt Nam bằng tiếng Việt, tiếng Anh hay tiếng gì? Hoặc có thể hỏi theo một cách cụ thể hơn: Liệu chúng ta có định dùng tiếng Việt để dạy trẻ? Liệu thế hệ tương lai có dùng tiếng Việt để học?
    Và tiếng Việt cần có những thay đổi, bổ sung nào thì mới phục vụ tốt được nhu cầu ngôn ngữ của thế hệ tương lai?

    Tiếng Anh đã trải qua nhiều thay đổi nhằm giảm chi phí trong việc in ấn: tiết kiệm công sức, giấy và mực in; sách báo qua đó rẻ hơn, tri thức qua đó dễ lan tỏa hơn, xã hội qua đó hiểu biết nhiều hơn.

    Có đợt em thử so sánh sự khác biệt về số thao tác khi viết một câu bằng tiếng Việt và viết một câu tiếng Anh có nghĩa tương đương.
    Em thấy cái nỗ lực (việc cần làm) phải bỏ ra khi viết tiếng Việt nhiều hơn tiếng Anh đến khoảng 30%. Ví dụ để viết câu: Anh ấy là giáo viên. Em cần thực hiện 25 thao tác gõ bàn phím ảo trên điện thoại (tính cả dấu cách giữa chữ và dấu chấm cuối câu). Trong khi đó với câu tương ứng trong tiếng Anh là “He is a teacher.” Em chỉ cần thực hiện 16 thao tác: Ít hơn 9 thao tác.
    Nếu nhân con số này với hàng triệu hàng triệu người và hàng tỷ lần sử dụng thì cái khác biệt sẽ là rất lớn. Kéo theo đó là thời gian, tiền bạc, công sức, giấy mực, v.v.. của cả người viết, người đọc, lẫn người nghe và người nói.

    Note lần 2:

    Ở ví dụ của người shipper thứ hai, em thấy đó là một biểu hiện của “sự tự động suy diễn của tư duy/suy nghĩ”. Nghĩa là đầu óc người ta đi đến cái ý nghĩ/cái suy nghĩ nào đó mà không hề lập luận – cái suy nghĩ lúc này gần như một phản xạ của não bộ chứ không còn là sản phẩm của lý trí/ý thức.
    Mặc dù, sự tự động phản xạ của não bộ – của tư duy/của suy nghĩ – này là cần thiết bởi nó giúp con người ta có thể nhanh chóng phản xạ lại với muôn vàn tình huống trong cuộc sống mà chẳng cần phải chủ động suy nghĩ (sự chủ động suy nghĩ đòi hỏi người ta phải ngưng lại ít nhất là vài khoảnh khắc hay một tích tắc để suy xét, nhưng khoảng thời gian đó nhiều lúc vẫn là quá nhiều và hành động tiếp theo sẽ là quá chậm: ví dụ gặp con sói bất thình lình hiện ra thì phản xạ tự nhiên là giật bắn người lại và rồi bỏ chạy thật nhanh chứ chẳng nghĩ gì cả; gặp chướng ngại vật thì ngay lập tức né theo phản xạ; và nếu sơ ý làm rơi đồ dễ vỡ thì ngay lập tập giơ tay ra túm lại v.v… trong những tình huống đó thì “sự phản xạ tự động của đầu óc” thường hữu ích).
    Tuy nhiên, có những tình huống sẽ tốt hơn nếu người ta dừng lại, chủ động suy nghĩ, bình tĩnh suy xét rồi mới hành động: tiêu biểu là tình huống với shipper thứ 2.

    Em thấy, sự chủ động suy nghĩ và bình tĩnh suy xét giống như kỹ năng bơi vậy phải tập luyện thì cũng mới biết, và phải liên tục trau dồi thì cũng mới tốt lên. Có những người không biết bơi và có những người gần như không làm chủ được tốt cái suy nghĩ của họ: Tại sao lại như vậy?

    Muốn suy xét tốt thì đầu người ta phải có một lượng thông tin ý tưởng đủ cho việc so sánh và đối chiếu, người ta cần phải biết và phải có sự đa dạng về thông tin, ý tưởng và các phương án suy nghĩ hành xử khác nhau cho một tình huống cụ thể nào đó và cho tất cả các tình huống khác nhau trong cuộc sống (cái này là vốn sống/ vốn hiểu biết của một người?!)…
    Khi cái hiểu biết, cái vốn sống của người ta rộng hơn, người ta có nhiều phương án ý tưởng hơn trong đầu… Người ta có các lựa chọn để suy nghĩ và hành động. Nếu trong cái vốn hiểu biết hay đầu óc người ta chưa có, chưa biết về một cái ý hay một cách xử thế cụ thể nào đó cho một tình huống cụ thể nào đó… thì khi gặp tình huống đó, gần như chắc chắn, người ta sẽ chẳng thể nào hành động được theo cái cách đó… Người ta chỉ hành động theo những gì người ta đã có, đã biết, đã từng trải qua… từ trước đó (vốn sống/vốn hiểu biết): Ví dụ, ở tình huống của người shipper thứ hai, người đó chưa có góc nhìn rằng “đứng gần lá cờ thôi là chưa đủ mà còn phải đứng làm sao để đối phương dễ thấy mình hơn”. Nhiều khả năng trải nghiệm đó sẽ khiến người đó lưu tâm (tích vào vốn sống) và từ đó về sau người đó sẽ có sự lưu ý đến điều này, đồng nghĩa rằng trong đầu người đó có thêm một ý, thêm một phương án: chỉ đứng gần thôi chưa đủ mà còn phải đứng làm sao để người kia dễ thấy mình hơn. Và điều đó nhiều khả năng sẽ khiến người đó lần sau sẽ suy nghĩ, hành động khác đi.

    Óc suy nghĩ: ai sinh ra và lớn lên ở đâu thì có nếp suy nghĩ đặc trưng của người sinh ra và lớn lên ở đó; nơi nào cộng đồng có sự gắn kết mạnh hơn thì cái nếp suy nghĩ đặc trưng của nơi đó thấm sâu hơn vào những người ở đó. Và khi người ta sinh ra và lớn lên với cái óc suy nghĩ, óc quan sát mà ai ai quanh họ cũng như vậy… thì cơ bản người ta, họ, cũng như vậy, khó có thể khác đi.
    Chỉ những người có dịp va chạm, tiếp xúc với các nếp suy nghĩ, góc nhìn, và văn hóa khác thì họ đó mới dần nhận ra nhận thấy và rồi khi thấy đủ nhiều mới quan sát, so sánh và đối chiếu được sự khác biệt giữa người nơi này và người nơi khác, óc suy nghĩ nơi này và óc suy nghĩ nơi khác.

    Cũng giống như người biết tiếng Anh và tiếng Việt có thể hiểu cả hai thứ tiếng ấy còn người chỉ biết một trong hai thì không thể hiểu tiếng kia. Người chưa va chạm, chưa dung nạp óc suy nghĩ, nếp suy nghĩ khác thì không hiểu óc suy nghĩ, nếp suy nghĩ ấy. Thành ra gặp một tình huống giống nhau nhưng có người có 3, 4 hoặc thậm chí nhiều hơn vậy các lựa chọn và những thứ để suy xét rồi hành động. Nhưng có người lại chỉ có một lựa chọn duy nhất.
    Qua ví dụ anh đưa ra thì em thấy shipper thứ hai chưa có góc nhìn giống góc nhìn của anh.
    Shipper đó có góc nhìn “đến gần lá cờ đã là đến,” và có lẽ, hầu hết những người ở nơi shipper đó sinh ra và lớn lên cũng có lối nghĩ như vậy.

    Cũng trong tình huống như vậy một người Việt khác, hoặc một người nước ngoài biết tiếng Việt, người có nếp suy nghĩ khác khả năng cao sẽ có suy nghĩ khác, hành động khác. Vậy, điểm mấu chốt ở đây có nằm ở tính “high-context” hay “low-context” của ngôn ngữ không? Hay nó nằm ở óc suy nghĩ, nếp suy nghĩ của người shipper? Theo em, ngôn ngữ (cụ thể ở đây là tiếng Việt) chỉ là công cụ biểu hiện ra óc suy nghĩ của shipper đó và sự “High-context” hay “low-context” của ngôn ngữ trong quá trình sử dụng tùy vào cách cụ thể mà ngôn ngữ được sử dụng chứ không nằm ở ngôn ngữ. Theo em: ngôn ngữ chính nó “vô tính”.
    (Đây là những suy nghĩ hiện tại của em và hoàn toàn có thể sẽ thay đổi trong tương lai.)

    P.S. Nếu anh đã đọc đến đây thì em cảm ơn anh đã đọc cái ghi chú này của em.

    Reply
    1. Phan Phuong Dat Post author

      Cám ơn bạn đã chia sẻ rất tâm huyết. Khái niệm high context và low context là khái niệm cơ bản trong nhân học văn hóa. Ngôn ngữ của dân tộc thuộc loại nào là thế hiện đặc điểm văn hóa của dân tộc ấy, và ko so sánh hơn hay kém. Bạn có thể tham khảo thêm ở bài này chẳng hạn: https://vietnambiz.vn/van-hoa-giau-ngu-canh-high-context-culture-la-gi-dac-diem-chung-20200101003915048.htm.

      Reply

Leave a Reply