Thuyết định hướng giá trị của Kluckhohn F. và Strodtbeck F.

Thuyết định hướng giá trị (value orientation theory) là một lý thuyết được sử dụng nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu liên văn hóa, lần đầu được các tác giả đề cập trong cuốn sách Variations in value orientations năm 1961.

Continue reading

Benito Mussolini. Học thuyết của chủ nghĩa phát xít

Giới thiệu. Ngày nay đa số mọi người chỉ biết đến chủ nghĩa phát xít một cách mơ hồ, liên quan đến bóng ma của chế độ Hitler, của nước Đức thời đảng Quốc xã. Nhiều người cũng đánh đồng chủ nghĩa phát xít vốn xuất thân ở Ý với chủ nghĩa quốc xã (nazism) của Hitler, trong khi nazism thực chất là một hình thức của chủ nghĩa phát xít. Nhà văn Ý Umberto Eco có bài phân tích chi tiết về việc tại sao người ta lại hay dùng chữ phát xít để nói về tất cả các chế độ và tư tưởng liên quan, và chỉ ra 14 dấu hiệu của chủ nghĩa phát xít (xem bản dịch tiếng Việt).

Muốn ngăn chặn sự trở lại của chủ nghĩa phát xít (có thể là dưới một tên gọi mới, thậm chí dưới danh nghĩa chống phát xít), chúng ta cần hiểu rõ nó, để có thể nhìn ra và có những hành động sớm để chặn đứng từ trong trứng nước, bất kể chiêu bài của chúng là gì. Do đó, chúng ta nên đọc bài viết này của cha đẻ của chủ nghĩa phát xít, Benito Mussolini.   

Continue reading

Review sách: The Road to Character (Đường đến nhân cách)

Tác giả: David Brooks, ra mắt 2015. Bản dịch của Trà Nam, NXB Trẻ, 2022.

Trong bài viết, tôi sẽ dịch character là “phẩm cách”, để tránh hiểu sai chữ “nhân cách” thành personality vốn có ý nghĩa khác với character.

Continue reading

Tám luận điểm dối trá của tuyên truyền Nga

Một năm trước, quân đội Nga đã tiến hành cuộc xâm lược vào Ukraina từ nhiều hướng: phía bắc – từ lãnh thổ Belarus, phía đông – từ cái gọi là “LPR” và “DPR” và phía nam – từ Crimea đã bị sáp nhập. Vladimir Putin gọi đây là “chiến dịch quân sự đặc biệt”, nhiệm vụ chính là “phi quân sự hóa” và “phi phát xít hóa” Ukraina. Kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã ghi nhận 18.657 thương vong trong dân thường Ukraine: 7.110 người chết và 11.547 người bị thương. Đây chỉ là những con số được xác nhận, thiệt hại thực tế chắc hẳn là lớn hơn nhiều.

Tuyên truyền đã trở thành một trong những vũ khí chính của chế độ Putin trong cuộc chiến với Ukraina – nó đã tỏ ra vô cùng hiệu quả cả trong và ngoài nước. Tuyên truyền có một số luận điểm được yêu thích đã trở thành meme (nhưng đối với một số người, đó là chân lý phổ biến). Chúng ta sẽ phân tích tại sao những luận điểm này là sai.

Continue reading

Điều nên chú ý khi học các môn khoa học xã hội

Thời gian gần đây, tôi tìm học Tâm lý học và Nhân học Văn hóa, và nhận thấy một số điều có thể hữu ích cho những người đang học như tôi.

Nói chung, khi học bất kỳ môn khoa học gì, ta cũng cần hiểu được các khái niệm và quan hệ giữa chúng, và hình thành một bản đồ trong đầu, gồm các điểm và các đường nối. Có sự khác biệt lớn trong quá trình dựng bản đồ giữa các môn KH tự nhiên và KH xã hội.

Với môn KHTN, các khái niệm là rất rõ ràng và chặt chẽ, nên ta có thể vẽ từng điểm một cách chắc chắn, rồi nối chúng lại. Với môn KHXH, các khái niệm rất trừu tượng, mơ hồ và phải dựa vào nhau để làm rõ, nên ta không thể chốt từng điểm một cách chắc chắn.

Cách học ở đây là, các điểm (khái niệm) chỉ có thể được làm rõ khi các đường nối (quan hệ) được rõ dần. Như vậy, ta phải chấp nhận bắt đầu bằng một bản đồ rất mung lung, rồi từng bước một cùng lúc làm rõ hơn các đường và các điểm, cứ thế lặp đi lặp lại để tấm bản đồ rõ nét dần. Cảm giác hoang mang và bối rối là dễ hiểu trong quá trình này.

Quá trình này giống như sự hình thành của một lưới neuron, các neuron phát triển đồng thời với những kết nối giữa chúng.

Một nguyên nhân của khó khăn trong việc học các môn KHXH có lẽ là vì ở trường phổ thông ta chỉ quen với việc học môn KHTN. Các môn như Sử, Địa ở trường phổ thông là môn học ghi nhớ và suy luận, chứ không phải về các khái niệm khoa học trừu tượng. Một nguyên nhân nữa là tiếng Việt thiếu một hệ thống thuật ngữ KHXH đầy đủ và nhất quán, các khái niệm được dịch mỗi lúc một kiểu.

Dán nhãn cho các Thế hệ là việc vô nghĩa. Đã đến lúc vứt bỏ chúng

Lời người dịch: các nhãn thế hệ (kiểu Millenian, Gen Z) được sử dụng ngày càng nhiều trong việc mô tả, đánh giá và hành xử với mọi người, kể cả ở VN. Khi tìm hiểu về vấn đề này, tôi thấy một số quan điểm phản đối cách dán nhãn như vậy, mà tôi cho là có lý. Dưới đây là một bài như vậy (link), đăng trong mục Quan điểm của tờ The Washington Post, ngày 7/7/2021. Bài gốc có nhiều link.
Cuối bài này, tôi dẫn thêm một số nguồn khác cùng quan điểm.

Continue reading

Đọc: “Chính trị và tiếng Anh” của George Orwell

Trong bài luận ngắn “Politics and the English Language” viết năm 1946, Orwell nêu quan điểm rằng ngôn ngữ bị ảnh hưởng bởi những mưu đồ chính trị, vì các nhà chính trị, nhất là độc tài, sử dụng ngôn ngữ tù mù khó hiểu để che giấu những mục đích thật của mình, để đánh lừa người nghe. Và ngược lại, khi mọi người quen nghe loại ngôn ngữ này, thì sẽ máy móc sử dụng nó, và tiếp tay cho việc hủy hoại ngôn ngữ, gây khó cho việc biểu đạt sự thật. Đến khi viết tiểu thuyết 1984 (xuất bản 1949), Orwell đã đặt tên cho loại ngôn ngữ bị bóp méo này là newspeak (bản dịch tiếng Việt dịch là “ngôn mới”).

Continue reading

Lời nguyền kiến thức (knowledge curse) gây hại khi bạn viết

Nếu bạn hay viết, có lẽ bạn là một kẻ-biết-tuốt (know-it-all).

Không phải theo kiểu một đứa trẻ 6 tuổi quen bắt nạt nói những câu như: “Bố tao biết về máy tính nhiều hơn bố mày,” hay một đứa 16 tuổi hay bắt nạt nói: “Tao sẽ là người vào Harvard chứ không phải bọn học trường công vớ vẩn như mày”.

Những người viết trở thành kẻ-biết-tuốt là vì công việc chúng ta làm. Thử nghĩ mà xem: với mỗi câu chuyện, bài báo hoặc bài blog mà bạn viết, bạn dành nhiều phút — đôi khi thậm chí hàng giờ — để đọc. Bạn cũng có thể phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực này — cho đến khi bạn hiểu đủ rõ về chủ đề để có một cuộc trò chuyện trí tuệ về chủ đề đó.

Continue reading

Review sách: Chiều kích thứ tư trong kiến trúc

“Chiều kích thứ tư trong kiến trúc. Tác động của công trình lên hành vi” là một cuốn sách rất mỏng (chỉ 64 trang) năm 1975 của hai tác giả Mildred Reed Hall và Edward T. Hall, trong đó Edward T. Hall (bài wikipedia) là nhà nhân học xuất chúng người Mỹ, có nhiều phát hiện trong lĩnh vực văn hóa, ví dụ quan niệm của các dân tộc về thời gian, không gian. Các khái niệm này sau đó được Edgar Schein đưa vào công trình của ông về Văn hóa của Tổ chức.

Continue reading

Phân loại khách hàng của freelancer


Mục tiêu của bạn là góc nào?

Các đại công ty (industry giants) muốn khối lượng lớn. Họ cần những người làm thuê đúng chuẩn, giá rẻ, bàn giao đều, và ổn định. Họ sẽ không đi tìm những freelancer làm hàng thửa (bespoke), có tính thủ công. Thậm chí không tìm người làm ‘tốt hơn’. Họ chỉ đơn giản là muốn sản phẩm đáp ứng đúng spec, với mức giá tốt nhất. Họ có thể khiến bạn rất bận rộn, và đôi khi có thể trả tiền đúng hạn.

Cũng có một số loài chim hiếm (rare birds), những khách hàng lớn và tiềm năng muốn tìm những freelancer có thể cung cấp cho họ thứ gì đó độc đáo và khó sao chép. Họ biết rằng những gì họ muốn là khan hiếm, và trả tiền thỏa đáng. Số này không nhiều. Nếu bạn tìm thấy một khách hàng như vậy, hãy trân quý.

Còn lại hai loại:

Nói chung, đông nhất là nhóm làm mất thì giờ của bạn (waste of time). Những công ty nhỏ này muốn trở thành (hoặc tỏ ra là) đại công ty, nhưng chỉ đơn giản là muốn giá thật rẻ, trong khi đặt hàng với khối lượng nhỏ và hay đòi thay đổi vào phút cuối. Rõ ràng, freelancer thông minh sẽ tránh xa những khách hàng này, bất kể ý định của họ tốt đẹp đến đâu.

Cuối cùng là hũ mật (sweet spot). Đó là khách hàng muốn bạn, với tất cả sự độc đáo, giá cả và sự kỳ diệu mà bạn có thể tạo ra. Là người trả nhiều tiền và nhận được nhiều hơn thế.

Nếu bạn để ý tìm, bạn sẽ dễ tìm ra họ hơn. Đặc biệt là nếu bạn đang thực sự tạo ra điều kỳ diệu độc đáo.

Dịch từ: Seth Godin. Scale and the small business (freelancer grid)